Bản án về tranh chấp ly hôn số 117/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 117/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 03 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện LH, tỉnh VL xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 267/2021/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Trần Minh C, sinh năm 1984 (xin vắng) Địa chỉ: Số 21/6 Khu 7, thị trấn TÔ, huyện TÔ, tỉnh VL.

Bị đơn: Chị Mạc Thị Kim H, sinh năm 1986 (xin vắng) Địa chỉ: Ấp HL, xã HN, huyện LH, tỉnh VL

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Trần Minh C trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Qua quen biết tìm hiểu nhau anh Trần Minh C và chị Mạc Thị Kim H đã tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới theo tập quán, có đăng ký kết hôn vào ngày 13/7/2012 tại Ủy ban nhân dân xã HN, huyện LH, tỉnh VL. Thời gian sau ngày cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau đến năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi nhau, bản thân anh C đã nhiều lần cố gắng khắc phục mâu thuẫn vợ chồng nhưng vẫn không được. Nay anh Trần Minh C yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Mạc Thị Kim H.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Phúc K, sinh ngày 28/12/2018. Khi ly hôn, anh C đồng ý giao con chung cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng đồng thời anh C và chị H tự thỏa thuận việc cấp dưỡng, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra anh Trần Minh C yêu cầu Tòa án cho anh được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm.

* Tại bản khai ngày 20 tháng 10 năm 2021 của bị đơn chị Mạc Thị Kim H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Mạc Thị Kim H thống nhất với lời trình bày của anh Trần Minh C về quan hệ hôn nhân và và mâu thuẫn vợ chồng. Chị H đồng ý ly hôn với anh C.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Phúc K, sinh ngày 28/12/2018. Khi ly hôn, chị H đồng ý được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đồng thời chị H và anh C tự thỏa thuận việc cấp dưỡng, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra chị Mạc Thị Kim H yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải và được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm.

* Tại phiên tòa hôm nay:

- Nguyên đơn anh Trần Minh C và bị đơn chị Mạc Thị Kim H có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Anh Trần Minh C có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện LH, tỉnh VL giải quyết việc hôn nhân của anh và chị Mạc Thị Kim H. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện LH, tỉnh VL.

Nguyên đơn anh Trần Minh C và bị đơn chị Mạc Thị Kim H có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Trần Minh C và chị Mạc Thị Kim H.

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Qua quen biết tìm hiểu nhau anh Trần Minh C và chị Mạc Thị Kim H đã tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới theo tập quán, có đăng ký kết hôn vào ngày 13/7/2012 tại Uỷ ban nhân dân xã HN, huyện LH, tỉnh VL là phù hợp với quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, do đó quan hệ hôn nhân là hợp pháp và được pháp luật công nhận.

Xét yêu cầu xin ly hôn của anh Trần Minh C, Hội đồng xét xử xét thấy: Anh Trần Minh C và chị Mạc Thị Kim H chung sống hạnh phúc với nhau đến năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi nhau, bản thân anh C đã nhiều lần cố gắng khắc phục mâu thuẫn vợ chồng nhưng vẫn không được cho thấy tình trạng hôn nhân giữa anh C và chị H là tình cảm vợ chồng không còn do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị H cũng thống nhất với lời trình bày của anh C về mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân và đồng ý ly hôn với anh C. Do đó cần chấp nhận yêu cầu của anh Trần Minh C, cho anh được ly hôn với chị Mạc Thị Kim H là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Phúc K, sinh ngày 28/12/2018. Khi ly hôn, anh C đồng ý giao con chung cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy: Anh Trần Minh C đồng ý giao con chung là cháu Trần Phúc K cho chị Mạc Thị Kim H được trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục, chị H cũng đồng ý trực tiếp nuôi dưỡng cháu K. Hơn nữa cháu Trần Phúc K chưa đủ 36 tháng tuổi do đó cần giao cháu Trần Phúc K cho chị Mạc Thị Kim H được tiếp tục nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Anh C và chị H đồng ý tự thỏa thuận về việc cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Anh Trần Minh C là nguyên đơn nên phải chịu toàn bộ án phí giải quyết vụ án hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

- Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Minh C.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Trần Minh C được ly hôn với chị Mạc Thị Kim H.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Trần Phúc K, sinh ngày 28/12/2018 cho chị Mạc Thị Kim H được trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục đồng thời anh Trần Minh C không phải cấp dưỡng nuôi con. Sau khi ly hôn, anh Trần Minh C có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Buộc nguyên đơn anh Trần Minh C nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ từ 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà nguyên đơn đã nộp theo biên lai thu số 0003255 ngày 15/10/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện LH, tỉnh VL.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 117/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:117/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về