Bản án về tranh chấp ly hôn số 111/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 111/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 139/2022/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Thị N, sinh năm 1978 (Có mặt);

Bị đơn: Ông Cao Văn D, sinh năm 1976 (Vắng mặt);

Cùng cư trú: Khóm X, thị trấn Trần Văn Thời, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/02/2022 và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần Thị N trình bày:

- Về hôn nhân: Bà Trần Thị N và ông Cao Văn D chung sống với nhau vào năm 1997, không có đăng ký kết hôn. Do bất đồng quan điểm sống, tình tình không hòa hợp nên vợ chồng thường xuyên cự cãi, hai bên gia đình đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng không mang lại kết quả. Vợ chồng đã sống ly thân hơn một năm. Do không còn tình cảm với ông D nên bà N yêu cầu được ly hôn với ông D.

- Về con chung: Vợ chồng có ba người con chung tên Cao Thị Diễm, sinh ngày 28/02/1998; Cao Thị Thúy, sinh năm 2000; Cao Văn Tựu, sinh ngày 29/10/2014. Do các cháu Diễm, Thúy đã thành niên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Riêng cháu Tựu, khi ly hôn bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi cháu Tựu mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu Tựu thành niên.

- Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Cao Văn D: Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông D để tham dự phiên tòa nhưng ông D không có mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông D về các nội dung khởi kiện của bà N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Cao Văn D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà không có mặt tại phiên tòa. Do đó căn cứ vào Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông D.

[2] Về hôn nhân: Bà Trần Thị N và ông Cao Văn D chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1997, mặc dù có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Do đó, căn cứ vào các Điều 9, 14, 53 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà N và ông D.

[3] Về con chung: Vợ chồng có ba người con chung tên Cao Thị Diễm, sinh ngày 28/02/1998; Cao Thị Thúy, sinh năm 2000; Cao Văn Tựu, sinh ngày 29/10/2014.

Đối với các cháu Cao Thị Diễm, Cao Thị Thúy: Đã thành niên, đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Đối với cháu Cao Văn Tựu: Khi ly hôn, bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, từ khi bà N và ông D ly thân đến nay cháu Tựu do bà N trực tiếp nuôi dưỡng, hơn nữa cháu Tựu cũng có nguyện vọng được sống với mẹ là bà N. Căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của cháu Tựu, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà N, giao cháu Tựu cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi cháu Tựu: Bà N yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu Tựu thành niên. Do ông D không trực tiếp nuôi cháu Tựu nên ông D có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Tựu. Về mức cấp dưỡng, xét thấy mức cấp dưỡng 1.000.000 đồng/tháng là phù hợp với điều kiện sinh hoạt tại địa phương và quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà N, buộc ông D cấp dưỡng cho cháu Tựu mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu Tựu thành niên là phù hợp với khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Bà N xác định tự thỏa thuận với ông D, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do không ghi nhận được ý kiến của ông D về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Nếu sau này đương sự có yêu cầu giải quyết thì sẽ yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác.

[5] Về nợ chung: Bà N xác định tự thỏa thuận với ông D, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do không ghi nhận được ý kiến của ông D về nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Nếu sau này đương sự có yêu cầu giải quyết thì sẽ yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác.

[6] Về án phí: Nguyên đơn bà N phải chịu án phí ly hôn; bị đơn ông D phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 9, 14, 53, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị N.

- Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Trần Thị N và ông Cao Văn D.

- Về con chung: Giao cháu Cao Văn Tựu, sinh ngày 29/10/2014 cho bà Trần Thị N trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Cao Văn D có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Tựu mà không ai được cản trở; ông D có nghĩa vụ tôn trọng quyền của cháu Tựu được sống chung với bà N.

Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc ông Cao Văn D cấp dưỡng cho cháu Cao Văn Tựu mỗi tháng 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) cho đến khi cháu Tựu thành niên.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

1. Án phí: Bà Trần Thị N phải chịu án phí số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Ngày 16/3/2022 bà N đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004532 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, được đối trừ chuyển thu.

Ông Cao Văn D phải chịu án phí số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), chưa nộp.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

2. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn bà Trần Thị N có quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn ông Cao Văn D có quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 111/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:111/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về