Bản án về tranh chấp ly hôn số 103/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 103/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 12 tháng 08 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 249/2022/TLST-HNGĐ, ngày 03 tháng 06 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/07/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 90/2022/QĐST-DS, ngày 27/07/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:  Anh Võ Văn Đ, sinh năm 1981 (xin vắng) Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long

- Bị đơn: Chị Lê Thị Tiến N, sinh năm 1983 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/04/2022 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Võ Văn Đ trình bày:

Vào năm 2021 qua quen biết anh và chị Lê Thị Tiến N có tiến tới hôn nhân, có làm lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long ngày 01/04/2021.

Sau khi kết hôn vợ chồng sống bên gia đình anh tại ấp A, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc kéo dài đến cuối năm 2021 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng thường xuyên bất đồng ý kiến, không cùng quan điểm sống, không còn tiếng nói chung, chị N bỏ nhà ra đi, nhưng không nói đi đâu, đã nhiều lần, đến lần thứ 4 thì đi luôn cho tới nay. Do đó vợ chồng anh sống ly thân từ tháng 02 năm 2022, từ đó cho đến nay vợ chồng không liên lạc gì với nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không Đ được nên anh yêu cầu được ly hôn với chị Lê Thị Tiến N.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn chị Lê Thị Tiến N vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên không trình bày.

Ngày 06/07/2022, nguyên đơn anh Võ Văn Đ có đơn xin vắng mặt, anh có ý kiến trình bày: Anh yêu cầu xin ly hôn với chị Lê Thị Tiến N. Về con chung: Không có. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài các yêu cầu trên, các đương sự không có yêu cầu nào khác và cũng không có cung cấp tài liệu, chứng cứ mới tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn anh Võ Văn Đ khởi kiện yêu cầu ly hôn nên đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về “Ly hôn”; bị đơn chị Lê Thị Tiến N cư trú tại xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Nguyên đơn anh Võ Văn Đ có đơn đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt; bị đơn bị đơn chị Lê Thị Tiến N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử thống nhất đưa vụ án ra xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về pháp luật nội dung:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Đ và chị N có quen biết tìm hiểu nhau từ năm 2021 rồi đi đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long ngày 01/04/2021 nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Theo anh Võ Văn Đ trình bày: Sau khi kết hôn vợ chồng sống bên gia đình anh tại ấp A, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc kéo dài đến cuối năm 2021 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng thường xuyên bất đồng ý kiến, không cùng quan điểm sống, không còn tiếng nói chung, chị N bỏ nhà ra đi, nhưng không nói đi đâu, đã nhiều lần, đến lần thứ 4 thì đi luôn cho tới nay. Do đó vợ chồng anh sống ly thân từ tháng 02 năm 2022, từ đó cho đến nay vợ chồng không liên lạc gì với nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không Đ được nên anh yêu cầu được ly hôn với chị Lê Thị Tiến N.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân của vợ chồng phải được xây dựng trên cơ sở tình cảm tự nguyện, có sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, vun đắp hạnh phúc, làm tròn quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, tuy nhiên hiện tại vợ chồng anh Đ, chị N đã sống ly thân, mỗi người ở một nơi, mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Qua đó cho thấy hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không Đ được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Đ được ly hôn với chị N là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “... Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không Đ được”.

[2]. Về con chung của vợ chồng: Anh Võ Văn Đ khai không có, chị Lê Thị Tiến N cũng chưa có văn bản nào trình bày về con chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[3]. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Anh Võ Văn Đ khai chưa yêu cầu, chị Lê Thị Tiến N cũng chưa có văn bản nào trình bày về tài sản chung, nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[4]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, 238, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của anh Võ Văn Đ được ly hôn với chị Lê Thị Tiến N.

[2]. Về con chung của vợ chồng: Anh Võ Văn Đ khai không có, nên không đặt ra giải quyết.

[3]. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Anh Võ Văn Đ khai chưa yêu cầu, nên không đặt ra giải quyết.

[4]. Về án phí: Anh Võ Văn Đ phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn là 300.000đ nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số No 0010732 ngày 04/05/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Anh Võ Văn Đ đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 103/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:103/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về