Bản án về tranh chấp ly hôn số 10/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNGTỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 10/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 165/2021/TLST- HNGĐ ngày 24 tháng 11 năm 2021 về việc “tranh chấp về ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022 và Quyết định định hoãn phiên tòa số 13/2022/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Ngọc Y, sinh năm 1973; nơi cư trú: khu phố B, thị trấn L, huyện H, tỉnh Bình Dương, vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn C, sinh năm 1970; nơi cư trú: khu phố B, thị trấn L, huyện H, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện đề ngày 12 tháng 11 năm 2021, Biên bản lấy lời khai ngày 02 tháng 12 năm 2021 nguyên đơn chị Trần Thị Ngọc Y trình bày:

Về hôn nhân: Chị Y và anh C là vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện H, tỉnh Bình Dương vào ngày 15 tháng 05 năm 2002. Hôn nhân tự nguyện. Sau khi kết hôn, chị Y và anh C sống hạnh phúc được mấy tháng đầu sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C gia trưởng, khó tính nên giữa chị Y và anh C không có tiếng nói chung, không cùng quan điểm sống. Do đó, khi mỗi lần hai vợ chồng nói chuyện với nhau được vài phút thì hai bên bắt đầu cự cãi; nếu như chị Y lớn tiếng lại, cãi lại không làm theo ý kiến của anh C thì anh đánh chị Y. Đầu năm 2021, anh C đánh chị Y nên chị Y bỏ về nhà mẹ đẻ của chị Y tại khu phố S, thị trấn L, huyện H, tỉnh Bình Dương để sinh sống. Khi đó, anh C có qua nhận lỗi khuyên nhủ nói chị Y về nhà lại thì chị Y cũng đã bỏ qua về sống cùng anh C nhưng anh C vẫn chứng nào tật nấy không thay đổi. Anh C vẫn tiếp tục đánh nên chị Y đã về nhà mẹ đẻ sinh sống từ tháng 8 năm 2021 cho đến nay nhưng thỉnh thoảng vẫn về nhà dọn dẹp nhà cửa, nấu cơm cho con. Hiện nay, Chị Y không còn tỉnh cảm với anh C nên yêu cầu được ly hôn anh C.

Về nuôi con chung: chị Y và anh C có 03 con chung tên Phạm Thị D, sinh năm 1991; Phạm Thị Đ, sinh năm 1992 và Phạm Văn E, sinh năm 1997. Hiện nay con chung đã thành niên nên chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về chia tài sản chung, nợ chung: Chị Y không tranh chấp không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Phạm Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tham gia phiên tòa nhưng anh C đều vắng mặt không lý do nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh C.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và về việc giải quyết vụ án: quá trình giải quyết vụ án, việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của ngư i tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của B luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227 của B luật tố tụng dân sự. Về n i dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án: chị Trần Thị Ngọc Y khởi kiện anh Phạm Văn C về việc tranh chấp về ly hôn; anh Phạm Văn C có nơi cư trú tại khu phố B, thị trấn L, huyện H, tỉnh Bình Dương nên thu c thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39 và điểm a khoản 1 Điều 35 của B luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Chị Y vắng mặt tại phiên tòa do có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của B luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Y. Tòa án triệu tập hợp lệ anh C lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng anh C vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của B luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh C.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn:

[3.1] Về hôn nhân: hôn nhân của chị Y và anh C là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 41, quyển số 01/2022 ngày 15 tháng 5 năm 2002; chung sống hạnh phúc được thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn do anh C gia trưởng, khó tính nên giữa chị Y và anh C không có tiếng nói chung. Chị Y và anh C đã ly thân từ tháng 8 năm 2021 cho đến nay. Xét thấy, chị Y và anh C là vợ chồng nhưng không còn thương yêu, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không sống chung với nhau là không thực hiện đúng ngh a vụ của vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nhận thấy, tình trạng hôn nhân của chị Y và anh C đã trầm trọng, đ i sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Y, quyết định cho chị Y và anh C ly hôn.

[3.2] Về con chung: chị Y và anh C có 03 con chung tên Phạm Thị D, sinh năm 1991; Phạm Thị Đ, sinh năm 1992 và Phạm Văn E, sinh năm 1997. Hiện nay con chung đã thành niên nên chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3.3] Về chia tài sản chung, nợ chung: chị Y không tranh chấp về chia tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Xét ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng và về việc giải quyết vụ án là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí: nguyên đơn chị Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của B luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39 và điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1, điểm a, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào Điều 19, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thư ng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị Ngọc Y với bị đơn anh Phạm Văn C về việc tranh chấp về ly hôn.

Về hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Trần Thị Ngọc Y với anh Phạm Văn C.

Về nuôi con chung: các con chung đã thành niên nên chị Trần Thị Ngọc Y không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về chia tài sản chung, nợ chung: chị Trần Thị Ngọc Y không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí: chị Trần Thị Ngọc Y phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân sơ thẩm, nhưng được khấu trừ 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0008810 ngày 19 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo: nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 10/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về