Bản án về tranh chấp ly hôn số 06/2020/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BÁN ÁN 06/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 645/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 426/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 313/2020/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1969 Địa chỉ: Số 48/22, khóm T, phường Mỹ T, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang – Có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn U, sinh năm: 1975 Địa chỉ: Số 48/22, khóm T, phường Mỹ T, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 07/9/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Nguyễn Thị U trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà N và ông U do quen biết trước, cả hai đã tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 1994, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Mỹ T, thành phố Long Xuyên ngày 29/05/2006. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, sau đó thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, do vợ chồng không có tiếng nói chung và những bất đồng trong gia đình thường xuyên xảy ra nên mâu thuẫn kéo dài, hiện đã sống ly thân. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt nên bà N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông U.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thị Bình N, sinh ngày 28/02/1998 đã trưởng thành và Nguyễn Hồng P, sinh ngày 08/4/2006 chưa trưởng thành. Khi ly hôn, bà N yêu cầu được nuôi dưỡng con chung chưa trưởng thành tên Nguyễn Hồng P, sinh ngày 08/4/2006 và không yêu cầu ông U cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn Ông Nguyễn Văn U vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa, không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Tại biên bản ghi ý kiến con chung vào ngày 15/10/2020, cháu Nguyễn Hồng P trình bày nguyện vọng được chung sống với mẹ nếu trường hợp ba, mẹ ly hôn.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn Bà Nguyễn Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với ông U. Về con chung: Bà N xin được được tiếp tục nuôi dưỡng con chung chưa trưởng thành tên Nguyễn Hồng P, sinh ngày 08/4/2006. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà N không có yêu cầu. Về tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu giải quyết. Bị đơn Ông Nguyễn Văn U vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng đét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tranh chấp giữa bà N với ông U là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ông Nguyễn Văn U có đăng ký hộ khẩu thường trú tại phường Mỹ T, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang nên bà N khởi kiện xin ly hôn với ông U thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn Ông Nguyễn Văn U mặc dù đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa Bà Nguyễn Thị N với Ông Nguyễn Văn U là hôn nhân tự nguyện, ông bà có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Mỹ T, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang ngày 29/5/2006 là phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đây là hôn nhân hợp pháp nên được công nhận. Trong quá trình chung sống, bà N cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường hay cự cãi, bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp nhau và vợ chồng đã sống ly thân, nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên bà N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông U.

Sau khi xem xét ý kiến của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy trong cuộc sống vợ chồng bà N, ông U có những mâu thuẫn không thể hàn gắn được, thể hiện qua việc vợ chồng đã sống ly thân, trong thời gian này cả hai chỉ lo cho cuộc sống cá nhân không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này thể hiện tình cảm vợ chồng bà N, ông U không thể hàn gắn được nếu tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân này sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống của cả hai. Do đó, việc bà N xin ly hôn với ông U là phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

[3] Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thị Bình N, sinh ngày 28/02/1998 đã trưởng thành và Nguyễn Hồng P, sinh ngày 08/4/2006 chưa trưởng thành. Khi ly hôn, bà N yêu cầu được nuôi dưỡng con chung chưa trưởng thành tên Nguyễn Hồng P, sinh ngày 08/4/2006. Xét thấy, thời gian qua cháu Phúc do bà N trực tiếp nuôi dưỡng vẫn đang sinh sống ổn định và phát triển bình thường về tâm sinh lý; điều này cho thấy bà N có đủ điều kiện nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, việc bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là có căn cứ và phù hợp với nguyên vọng của cháu Phúc (bản ghi ý kiến ngày 15/10/2020, cháu Phúc có nguyện vọng được sống chung với bà N) nên được chấp nhận. Nếu sau này, bà N và ông U có thỏa thuận thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc bà N không đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì ông U được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Ông U là người không trực tiếp nuôi con chung nhưng theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì ông U có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Bà N và các thành viên gia đình bà N không được cản trở ông U trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Việc nuôi con không cố định.

Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên

[4] Về cấp dưỡng: Do bà N không có yêu cầu ông U cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xét đến.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà N trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét đến.

[7] Về án phí: Bà Nguyễn Thị N phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bà N và ông U được quyền kháng cáo trong theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 235; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 8; Điều 9; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa Bà Nguyễn Thị N và Ông Nguyễn Văn U.

[2] Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thị Bình N, sinh ngày 28/02/1998 đã trưởng thành và Nguyễn Hồng P, sinh ngày 08/4/2006 chưa trưởng thành.

Giao Nguyễn Hồng P, sinh ngày 08/4/2006 cho Bà Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Văn U không trực tiếp nuôi con chung nhưng ông U có quyền được thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản ông U thực hiện quyền này. Việc nuôi con không cố định.

Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Văn U không phải cấp dưỡng nuôi con, do bà N không có yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chưa giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà bà N đã nộp theo biên lai thu số 0005703 ngày 15/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên. Bà N đã nộp xong án phí.

[6] Về quyền kháng cáo:

Bà Nguyễn Thị N được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng Ông Nguyễn Văn U được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 06/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về