Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 28/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 28/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 91/2021/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu P - sinh năm 1988 (Có đơn xin vắng mặt). Địa chỉ: Số A, Khóm D, Phường C, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

- Bị đơn: Anh Hứa Hữu V - sinh năm 1984 (Có đơn xin vắng mặt). Địa chỉ: Số E, Khóm H, Phường F, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại “Đơn khởi kiện” ngày 16/3/2021, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu P trình bày: Năm 2006 chị và anh Hứa Hữu V tự nguyện chung sống vợ chồng với nhau và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc đến năm 2013 phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, nay vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và không biện pháp hàn gắn nên chị yêu cầu cầu được ly hôn với anh Hứa Hữu V. Trong quá trình chung sống, chị và anh V có 02 con chung là cháu Hứa Thị Mỹ H, sinh ngày 27/5/2007 và cháu Hứa Phương D, sinh ngày 26/01/2010; khi ly hôn chị yêu cầu nuôi cả 02 con chung và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không nên không yêu cầu giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/6/2021, bị đơn anh Hứa Hữu V trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Thu P tự nguyện chung sống với nhau vợ chồng năm 2006 và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân Phường 5, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu ngày 27/11/2006; hôn nhân của anh chị là tự nguyện. Sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống bên gia đình vợ, vợ chồng chung sống hạnh phúc, không có phát sinh mâu thuẫn, đến năm 2013 giữa anh và cha vợ có xảy ra mâu thuẫn với nhau nên anh đã về nhà mẹ ruột anh sinh sống đến năm 2019 thì chấp hành án đến nay, từ lúc sống ly thân thì anh và chị P không còn tình cảm với nhau, bản thân anh không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên, nay vợ anh yêu cầu ly hôn thì anh không đồng ý do anh đanh chấp hành án chưa xong, khi nào chấp hành án xong anh sẽ về gặp vợ để giải quyết nhiều vấn đề với nhau nên chưa đồng ý ly hôn.

Anh và chị P có 02 con chung là cháu Hứa Thị Mỹ H, sinh ngày 27/5/2007 và cháu Hứa Phương D, sinh ngày 26/01/2010; trường hợp phải ly hôn thì anh yêu cầu nuôi cả 02 con chung và không yêu cầu cáp dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và nội dung vụ án:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý cho đến phiên tòa xét xử sơ thẩm hôm nay, Tòa án đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Giải quyết đúng thẩm quyền, cấp, tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định. Thành phần Hội đồng xét xử đúng quy định không thuộc trường hợp phải thay đổi ai. Việc chấp hành pháp luật của đương sự đã thực hiện đầy đủ. Tuy nhiên việc tống đạt văn bản tố tung cho đương sự còn trễ.

- Về nội dung vụ án: Xét thấy, có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu P, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị P đối với anh V. Về con chung, đề nghị giao 02 con chung cho chị P nuôi dưỡng và anh V không phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung không có và không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thu P khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Hứa Hữu V, yêu cầu nuôi con khi ly hôn nên đây là tranh chấp về ly hôn, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn anh Hứa Hữu V có địa chỉ cư trú tại Khóm H, Phường F, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

* Về thủ tục tố tụng: Xét thấy nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thu P và bị đơn anh Hứa Hữu V đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị P và anh V theo quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

* Về nội dung vụ án:

[1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu P và anh Hứa Hữu V tự nguyện chung sống vợ chồng với nhau vào năm 2006 và được Ủy ban nhân dân Phường C, thị xã B, tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 27/11/2006, việc chị P và anh V chung sống với nhau như vợ chồng là có xảy ra trên thực tế và các bên đều thống nhất thừa nhận. Hôn nhân giữa chị P và anh V là hợp pháp nên được pháp luật bảo vệ.

Xét yêu cầu của chị Nguyễn Thị Thu P xin ly hôn với anh Hứa Hữu V. Hội đồng xét xử thấy rằng: Theo chị P xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và không thể hàn gắn, vợ chồng đã ly thân từ năm 2013 đến nay, nay chị yêu cầu được ly hôn với anh V. Anh V tuy cho rằng giữa anh và chị P không có xảy ra mâu thuẫn gì nhưng cũng xác định năm 2013 thì anh có xảy ra mâu thuẫn với cha mẹ vợ và sống ly thân với chị P từ đó cho đến nay; từ lúc sống ly thân thì giữa anh và chị P cũng không còn tình cảm và anh không muốn hàn gắn để chung sống lại với nhau.

Xét thấy, vợ chồng phải có nghĩa vụ quan tâm, yêu thương, tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau chăm sóc gia đình, nhưng từ năm 2013 đến nay chị P, anh V đã sống ly thân, không quan tâm lẫn nhau, cuộc sống của ai người đó tự lo. Mặt khác, từ khi thụ lý vụ án Tòa án đã cho thời gian hai bên hàn gắn nhưng các bên không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Chị P vẫn cương quyết xin ly hôn với anh V chứng tỏ sự mâu thuẫn, rạn nứt trong quan hệ của anh chị không có khả năng hàn gắn lại được, mục đích hôn nhân giữa chị P và anh V không đạt được. Hôn nhân được duy trì bền vững lâu dài và hạnh phúc là trên cơ sở tự nguyện của cả hai bên, chị P đã yêu cầu được ly hôn và xác định không thể tiếp tục chung sống với anh V, lý do anh V không đồng ý ly hôn là do chấp hành án chưa xong và khi chấp hành án xong về gặp vợ để giải quyết nhiều vấn đề với nhau là không có cơ sở chấp nhận.

Căn cứ Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị P, cho chị P được ly hôn với anh V.

[2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thu P và anh Hứa Hữu V thống nhất xác định trong quá trình chung sống anh chị có 02 con chung là cháu Hứa Thị Mỹ H, sinh ngày 27/5/2007 và cháu Hứa Phương D, sinh ngày 26/01/2010 (cháu Hằng và cháu Duy đang ở cùng chị P).

Xét yêu cầu của chị P được nuôi cả 02 con chung cũng như ý kiến của anh V trường hợp ly hôn thì anh cũng yêu cầu được nuôi 02 con chung, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại biên bản ghi nhận ý kiến của cháu Hằng và cháu Duy cùng ngày 14/4/2021 cháu Hằng và cháu Duy xác định hiện tại đang sống cùng mẹ, cuộc sống và việc học hành của các cháu ổn định, mọi việc hằng ngày do mẹ chăm sóc, trước giờ các cháu luôn theo sống cùng mẹ và khi cha mẹ ly hôn thì các cháu muốn tiếp tục sống với mẹ. Xét thấy, thực tế các cháu đang sống cùng chị P và chị P là người trực tiếp chăm sóc các cháu, giữa chị P và anh V đã sống ly thân từ năm 2013 cho đến nay, anh V cũng thừa nhận từ thời điểm vợ chồng ly thân thì các con sống cùng mẹ và chị P là người trực tiếp chăm sóc các cháu; Mặt khác anh V hiện đang phải chấp hành án nên không đảm bảo điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con. Do đó việc giao 02 con chung cho chị P nuôi dưỡng là đảm bảo quyền lợi và phù hợp với nguyện vọng của cháu, bên cạnh đó đảm bảo việc học hành của cháu được ổn định, tránh xáo trộn về mặt tâm lý của cháu Hằng và cháu Duy nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị P, giao cháu Hằng và cháu Duy cho chị P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình. Chị P không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về tài sản chung: Chị P và anh V thống nhất xác định trong thời gian chung sống, vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[4] Về án phí:

Chị P yêu cầu ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Từ các phân tích trên, đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoàn 2 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Thu P đối với anh Hứa Hữu V.

2. Về nuôi con chung: Giao 02 con chung là cháu cháu Hứa Thị Mỹ H, sinh ngày 27/5/2007 và cháu Hứa Phương D, sinh ngày 26/01/2010 cho chị Nguyễn Thị Thu P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục (cháu Hằng và cháu Duy đang ở cùng chị P). Anh Hứa Hữu V không phải cấp dưỡng nuôi con do chị P không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, anh V có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị Thu P và anh Hứa Hữu V thống nhất xác định không có tài sản chung, không có nợ chung và không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu P phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chị P đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0011937 ngày 29/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí.

Án xử công khai, chị Nguyễn Thị Thu P và anh Hứa Hữu V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 28/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:28/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về