Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 258/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 258/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 09 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 1187/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 257/2022/QĐXX-ST ngày 15/7/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lê Ngọc L, sinh năm 1991.

Địa chỉ: tổ 18, khu phố N, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1991.

Địa chỉ: tổ 18, khu phố N, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Tạm trú: khu phố B1, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(ông L, bà T có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn ông Lê Ngọc L trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị Kim T kết hôn vào năm 2015, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, hôn nhân tự nguyện. Quá trình chung sống chỉ hạnh phúc thời gian đầu sau đó phát sinh mâu thuẫn do tính cách không hoà hợp, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông đề nghị giải quyết cho ông được ly hôn với bà T.

- Về con chung: Có 02 con chung là cháu Lê Ngọc Khả N, sinh ngày 07/12/2015 và Lê Ngọc Đan T1, sinh ngày 16/6/2020. Khi ly hôn ông L đề nghị được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu N, đồng ý giao cháu T1 cho bà T chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời không ai cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu toà án giải quyết. Ngoài ra không yêu cầu gì khác.

- Tại bản tự khai, bị đơn bà Nguyễn Thị Kim T trình bày:

Bà và ông Lê Ngọc L kết hôn vào năm 2015, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường T, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai, hôn nhân tự nguyện. Quá trình chung sống vợ chồng vẫn hạnh phúc. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống cùng cha mẹ ông L tại phường T, thành phố B. Đến ngày 08/3/2022 do cháu Lê Ngọc Đan T1 bị Covid nên bà đưa cháu T1 về sống cùng cha mẹ bà tại phường H, thành phố B, còn ông L và cháu Lê Ngọc Khả N vẫn ở phường T. Nhận thấy hai vợ chồng vẫn hạnh phúc và không có mâu thuẫn gì nên ông L xin ly hôn thì bà không đồng ý.

- Về con chung: Có 02 con chung là cháu Lê Ngọc Khả N, sinh ngày 07/12/2015 và Lê Ngọc Đan T1, sinh ngày 16/6/2020. Nếu Tòa giải quyết ly hôn bà đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung. Tạm thời không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu toà án giải quyết. Ngoài ra không yêu cầu gì khác.

* Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên Tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đảm bảo đúng quy định pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng các thủ tục theo quy định pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của ông Lê Ngọc L. Ông Lê Ngọc L được ly hôn với bà Nguyễn Thị Kim T.

+ Về con chung: đề nghị giao cháu Lê Ngọc Khả N, sinh ngày 07/12/2015 cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Lê Ngọc Đan T1, sinh ngày 16/6/2020 cho bà T nuôi dưỡng. Tạm thời không ai cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa giải quyết.

+ Về nợ chung: không có, không đặt ra xem xét, giải quyết.

+ Về án phí: ông L phải nộp án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Vụ án tranh chấp ly hôn có bị đơn cư trú tại thành phố B nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Ngọc L và bà Nguyễn Thị Kim T tự nguyện tìm hiểu, sống chung với nhau vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ các điều 8, 9 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 xác định quan hệ hôn nhân của ông L, bà T là hợp pháp. Nay ông L xin ly hôn, Tòa án căn cứ vào Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

[3] Về yêu cầu xin ly hôn của ông L: Ông L xin ly hôn với bà T với lý do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng không hòa hợp. Quá trình chung sống bà T cùng gia đình của bà đã xúc phạm ông và gia đình của ông. Bà T trình bày hai vợ chồng chung sống vẫn hạnh phúc và không phát sinh mâu thuẫn. Khi thấy ông L có mối quan hệ với người phụ nữ khác thì bà chỉ tâm sự cùng với gia đình của bà, không có việc bà xúc phạm ông L và gia đình của ông L.

Xét thấy, Tòa án đã xác minh về mâu thuẫn giữa vợ chồng ông Lê Ngọc L, bà Nguyễn Thị Kim T khi ông bà sống chung tại phường T, thành phố Biên Hòa. Đại diện chính quyền địa phương cho biết ông L và bà T chung sống có mâu thuẫn hay không địa phương không biết. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Tòa án đã nhiều lần tiến hành hòa giải đoàn tụ giữa ông L và bà T nhưng ông L vẫn kiên quyết ly hôn, cho thấy ông L không còn muốn níu kéo cuộc hôn nhân này. Ông L và bà T đã sống ly thân với nhau từ tháng 3/2022 đến nay.

Do đó, mâu thuẫn giữa ông L, bà T là có thật, mục đích hôn nhân không đạt được. Hôn nhân hạnh phúc phải xuất phát từ cả hai bên cùng vun đắp, khi một bên đã không còn tình cảm thì có níu giữ cuộc hôn nhân cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận cho ông Lê Ngọc L được ly hôn bà Nguyễn Thị Kim T.

Đối với ý kiến bà T về việc ông L có mối quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, bà T cung cấp những hình ảnh bà T chụp được cho rằng của ông L và người phụ nữ khác. Tuy nhiên, ông L không thừa nhận đó là hình ảnh của ông L, và không thừa nhận việc có mối quan hệ với người phụ nữ khác. Ngoài những chứng cứ trên, bà T không còn tài liệu, chứng cứ khác chứng minh nên không có cơ sở xem xét.

[4] Về con chung: Ông L, bà T có 02 con chung là cháu Lê Ngọc Khả N, sinh ngày 07/12/2015 và Lê Ngọc Đan T1, sinh ngày 16/6/2020. Ly hôn, ông L đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N, đồng ý giao cháu T1 cho bà T chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời không ai cấp dưỡng nuôi con. Bà T có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông L, bà T đều trình bày có đủ điều kiện về kinh tế, nơi ở, thời gian để chăm sóc hai con.

Xét thấy, ông L, bà T đều có điều kiện kinh tế, sức khoẻ, phẩm chất đạo đức tốt để nuôi dạy con. Khoản 1 Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên. HĐXX nhận thấy, cháu Lê Ngọc Đan T1 hiện nay đang ở với bà T, cháu Lê Ngọc Khả N hiện nay đang ở với ông L, Tòa án đã tiến hành lấy ý kiến của cháu N và cháu cũng có nguyện vọng được sống cùng với ông L. Do đó, để đảm bảo việc ổn định cuộc sống, phát triển toàn diện về thể chất cũng như tinh thần của cháu N, HĐXX nhận thấy giao cháu N cho ông L nuôi dưỡng, cháu T1 giao cho bà T nuôi dưỡng, tạm thời không ai cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp.

[5] Về tài sản chung: Ông L, bà T khai tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[6] Về nợ chung: Ông L, bà T khai không có, không yêu cầu giải quyết.

[7] Về án phí HNGĐ sơ thẩm: Ông L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[8] Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên Tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điều 203, điều 235, điều 266 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Áp dụng Điều 8, 9, 51, 53, 54, 56, 57, 71, 81, 82, 83, 84, 131 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;

1. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Lê Ngọc L. Ông Lê Ngọc L được ly hôn với bà Nguyễn Thị Kim T.

2. Về con chung: Có 02 cháu tên Lê Ngọc Khả N, sinh ngày 07/12/2015 và Lê Ngọc Đan T1, sinh ngày 16/6/2020. Ly hôn, giao cháu N cho ông L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; giao cháu T1 cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Vì không trực tiếp nuôi con nên ông L, bà T được quyền đi lại thăm con không ai cản trở. Vì quyền lợi của trẻ khi cần thiết ông bà được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Không đặt ra xem xét, giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông L phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được trừ vào tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 02350 ngày 19/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

324
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 258/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:258/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về