TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 24/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 27 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 323/2021/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2021 về “tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 295/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 12/2022/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Võ Thị Thúy K, sinh năm 1995, địa chỉ cư: tổ 34, ấp Chánh Hưng, xã BL, huyện P, tỉnh An Giang (Có mặt).
- Bị đơn: Anh Lê Quốc T, sinh năm 1998, địa chỉ cư trú: khóm Thạnh Lợi, thị trấn VTT, huyện P, tỉnh An Giang (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Võ Thị Thúy K trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Lê Quốc T tự nguyện quen nhau rồi tiến tới kết hôn vào năm 2020, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã VTT (nay là thị trấn VTT), huyện P, tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 97/2020, ngày đăng ký 18/6/2020. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, về sau vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã với nhau. Khi còn sống chung với nhau bên gia đình chồng, anh T không quan tâm, lo lắng cho chị K, vợ chồng hay cãi vã, khi chị mâu thuẫn với gia đình bên chồng, anh T cũng không bênh vực. Khoảng mấy tháng nay, chị quyết định bỏ về nhà cha mẹ ruột sống nhưng anh T cũng không quan tâm, hỏi thăm chị hay đến thăm con. Anh chị đã lâu không liên lạc với nhau. Nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn hạnh phúc, vợ chồng đã nhiều lần hàn gắn nhưng không được, mâu thuẫn giữa chị với anh T và với gia đình bên chồng ngày càng lớn nên anh chị không thể chung sống lại với nhau được nữa. Chị khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh T.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Ngọc A, sinh ngày 10/10/2020, hiện cháu đang sống với chị K. Khi ly hôn, chị K yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Lê Quốc T vắng mặt, không gửi văn bản trình bày ý kiến cho Tòa án về yêu cầu khởi kiện của chị K.
* Toà án tiến hành xác minh, được biết anh Lê Quốc T có đăng ký hộ khẩu thường trú và đang sinh sống cùng với gia đình tại khóm Thạnh Lợi, thị trấn VTT, huyện P, tỉnh An Giang. Hiện đi làm thuê xa, ít có mặt ở nhà, có đi, về thăm gia đình rồi đi làm tiếp. Về hôn nhân giữa vợ chồng anh T có mâu thuẫn như thế nào thì Ban ấp không nắm rõ, chỉ biết trước đây vợ chồng anh T sống cùng với gia đình cha mẹ anh T nhưng cách nay vài tháng, chị K đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống, không còn sống cùng với anh T nữa.
* Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.
* Tại phiên tòa:
- Chị K vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn với anh T, yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.
- Anh T vắng mặt tại phiên toà.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P phát biểu ý kiến như sau:
+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Đối với người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định tại Điều 70; Điều 71 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Riêng bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do trong suốt quá trình giải quyết vụ án là chưa chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56, 58, 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị K được ly hôn với anh T, giao con chung là cháu Lê Ngọc A cho chị K được trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: do chị K không yêu cầu nên đề nghị không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung: do chị K không yêu cầu nên đề nghị không xem xét, giải quyết. Về án phí sơ thẩm: Đề nghị xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền giải quyết:
Chị Võ Thị Thúy K khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết về con chung đối với bị đơn anh Lê Quốc T nên xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là "tranh chấp ly hôn, nuôi con". Anh T có địa chỉ cư trú tại thị trấn VTT, huyện P, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[1.2] Về sự có mặt, vắng mặt của đương sự:
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên tòa, nguyên đơn có mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên toà lần thứ hai, không có lý do nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về hôn nhân: Chị K và anh T tự nguyện kết hôn nhân với nhau vào năm 2020 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VTT (nay là thị trấn VTT), huyện P, tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 97/2020, ngày đăng ký 18/6/2020 nên xét hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.
Xét thấy vợ chồng có nghĩa vụ sống chung, yêu thương, quan tâm, chăm sóc, tôn trọng lẫn nhau. Tuy nhiên, theo chị K trình bày, khi còn sống chung, anh T đã không chăm lo, quan tâm đến chị, nhiều lần chị K mâu thuẫn với gia đình bên chồng, anh T cũng không bênh vực. Từ đó, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã với nhau, không tôn trọng nhau. Khi chị quyết định bỏ về nhà cha mẹ ruột sống, anh T cũng không quan tâm, hỏi thăm chị hay đến thăm con. Nhận thấy tình cảm giữa chị và anh T không thể nào hàn gắn, mâu thuẫn giữa anh chị và với gia đình chồng quá lớn nên chị yêu cầu ly hôn với anh T. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên hòa giải, phiên tòa để tạo điều kiện cho chị K và anh T có cơ hội được hàn gắn lại tình cảm với nhau nhưng anh T đều vắng mặt và không gửi văn bản ý kiến trình bày cho Tòa án về yêu cầu khởi kiện của chị K. Cho thấy anh T đã tự từ bỏ quyền lợi của mình, không quan tâm tới gia đình, không muốn hàn gắn và duy trì mối quan hệ hôn nhân với chị K. Tại phiên tòa, mặc dù đã được Hội đồng xét xử động viên đoàn tụ nhưng chị K vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn với anh T, cho thấy chị K cũng không tha thiết hàn gắn, duy trì mối quan hệ hôn nhân với anh T.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa chị K và anh T đã thật sự lâm vào trình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị K, cho chị K được ly hôn với anh T là phù hợp với quy định tại Điều 19, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P.
[2.2] Về con chung:
Vợ chồng có một con chung tên Lê Ngọc A, sinh ngày 10/10/2020, hiện cháu đang sống với chị K. Xét thấy, hiện cháu A đang sống ổn định với chị K, anh T không có ý kiến về con chung và căn cứ theo Điều 58, Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định khi ly hôn con dưới 36 tháng tuổi thì sẽ giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, để đảm bảo về sự phát triển mọi mặt của con chung, Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung là cháu Lê Ngọc A cho chị Võ Thị Thúy K được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị K không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
Về quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật: Căn cứ vào Điều 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chị K và các thành viên trong gia đình không được cản trở anh T đến thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung.
Quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và cấp dưỡng nuôi con là không cố định. Vì lợi ích của các con, theo yêu cầu của một bên, các bên hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi về cấp dưỡng nuôi con chung.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Do anh T vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến của anh T về tài sản chung, nợ chung nên trường hợp sau này anh T và chị K có tranh chấp về tài sản chung, nợ chung thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án khác.
[3] Về án phí: Do chị K là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên chị K phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 19, 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Thúy K.
- Về hôn nhân: Cho chị Võ Thị Thúy K được ly hôn với anh Lê Quốc T.
Giấy chứng nhận kết hôn số 97/2020, ngày đăng ký 18/6/2020 do Uỷ ban nhân dân xã VTT (nay là thị trấn VTT), huyện P, tỉnh An Giang cấp cho chị Võ Thị Thúy K và anh Lê Quốc T không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.
- Về con chung: Chị Võ Thị Thúy K được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Lê Ngọc A, sinh ngày 10/10/2020, hiện cháu A đang sống với chị K.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xét, giải quyết.
Chị K và các thành viên trong gia đình không được cản trở anh T đến thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung.
Quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và cấp dưỡng nuôi con là không cố định. Vì lợi ích của các con, theo yêu cầu của một bên, các bên hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi về cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.
- Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Võ Thị Thúy K phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) mà chị K đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0003347 ngày 19 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P nên chị K không phải nộp thêm.
- Về quyền kháng cáo: Chị Võ Thị Thúy K có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lê Quốc T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 24/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 24/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về