Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 227/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 227/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 08 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 110/2022/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 03 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 174/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 06 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh M, sinh năm 1987 (có mặt).

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang. Nơi ở hiện nay: Tổ 4, khóm V, phường N, thành phố C, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Anh Đào Hoàng S, sinh năm 1984 (có mặt). Nơi cư trú: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 23/02/2022 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh M trình bày như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh S chung sống với nhau vào năm 2012, hôn nhân do cha mẹ định đoạt, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện C, tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 209/2012, Quyển số 02/2012 ngày 24/9/2012. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xảy ra cự cãi với nhau về tiền bạc và nhiều việc khác, nguyên nhân do tính tình vợ chồng không còn hợp nhau, bất đồng quan điểm, anh S thiếu sự quan tâm đến vợ con, thường uống rượu, chửi bới, la mắng và đánh vợ. Vợ chồng ly thân từ tháng 8/2020 cho đến nay. Thời gian ly thân vợ chồng không hàn gắn được tình cảm với nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng.

Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh S.

- Về con chung: Có 02 (hai) con chung là Đào Hoài T, sinh ngày 10/10/2013 và Đào Hoàng N, sinh ngày 15/3/2016. Hiện nay cháu T đang sống cùng với anh S, còn cháu N đang sống cùng với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu N và đồng ý để anh S được trực tiếp nuôi cháu T. Chị không cấp dưỡng nuôi cháu T và cũng không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi cháu N.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.

Theo tờ tự khai ngày 13/4/2022 và quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Đào Hoàng S trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh thống nhất với chị M về thời gian kết hôn và điều kiện kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn đúng như chị M trình bày, do anh nóng giận vì chị M thường cằn nhằn mỗi khi anh uống rượu, nói chuyện với anh thì cọc cằn, thô lỗ nên xảy ra cự cãi với nhau, trong lúc nóng giận anh có đánh chị M nhưng sự việc xảy ra vào năm 2019. Vợ chồng ly thân từ tháng 8/2020 cho đến nay. Thời gian ly thân anh tìm nhiều cách để liên lạc, hàn gắn tình cảm với chị M nhưng không được do chị M cố tình né tránh anh.

Nay trước yêu cầu ly hôn của chị M anh vẫn còn thương vợ, thương con, anh không đồng ý ly hôn, anh mong muốn vợ chồng được đoàn tụ để cùng nhau lo cho các con được tốt hơn.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 (hai) con chung là Đào Hoài T, sinh ngày 10/10/2013 và Đào Hoàng N, sinh ngày 15/3/2016. Hiện nay cháu T đang sống cùng với anh, còn cháu N đang sống cùng với M. Nếu phải ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu T và đồng ý để Mai được trực tiếp nuôi cháu N. Anh không cấp dưỡng nuôi cháu N và cũng không yêu cầu chị M cấp dưỡng nuôi cháu T.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

- Chị M trình bày: Chị vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh S. Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu N và đồng ý để anh S được trực tiếp nuôi cháu T. Chị không cấp dưỡng nuôi cháu T và cũng không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi cháu N. Chị không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản chung và nợ chung.

- Anh S trình bày: Anh vẫn còn thương vợ, thương con nhưng chị M không còn tình cảm và cương quyết yêu cầu ly hôn với anh. Do đó, vợ chồng không có khả năng đoàn tụ với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, hôn nhân có kéo dài cũng không còn hạnh phúc nên anh thống nhất ly hôn với chị M. Anh yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu T và đồng ý để chị M được trực tiếp nuôi cháu N. Anh không cấp dưỡng nuôi cháu N và cũng không yêu cầu chị M cấp dưỡng nuôi cháu T. Anh không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản chung và nợ chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân chịng giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị M và anh S. Về con chung: Chị M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu N. Anh S được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu T. Do chị M, anh S không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung: Chị M, anh S không yêu cầu nên đề nghị không xem xét, giải quyết. Về án phí sơ thẩm: Đề nghị xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Chị Nguyễn Thị Thanh M khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết về con chung đối với bị đơn anh Đào Hoàng S nên xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là "Tranh chấp ly hôn, nuôi con". Anh S có địa chỉ cư trú tại Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Chị M và anh S kết hôn vào năm 2012, anh chị có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã M theo quy định của pháp luật nên xét hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.

Xét thấy, vợ chồng có nghĩa vụ sống chung, thương yêu, chung thuỷ, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Tuy nhiên, theo chị M trình bày và kết quả xác minh tại địa phương nơi chị M, anh S cư trú thì vợ chồng thường xảy ra cự cãi với nhau, nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm, anh S thiếu sự quan tâm đến vợ con, thường uống rượu, chửi bới, la mắng và đánh vợ. Về phía anh S trình bày nguyên nhân mâu thuẫn đúng như chị M trình bày, do anh nóng giận vì chị M thường cằn nhằn mỗi khi anh uống rượu, nói chuyện với anh thì cọc cằn, thô lỗ nên xảy ra cự cãi với nhau, trong lúc nóng giận anh có đánh chị M nhưng sự việc xảy ra vào năm 2019. Thực tế chị M, anh S đã không còn sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Anh chị ly thân từ tháng 08/2020 cho đến nay nhưng vẫn không giải quyết được mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay chị M cương quyết yêu cầu ly hôn và anh S cũng đồng ý ly hôn. Điều này cho thấy, anh chị không muốn đoàn tụ với nhau.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng hôn nhân giữa anh chị đã thật sự lâm vào trình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đồng thời, việc thuận tình ly hôn giữa anh chị là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị M và anh S là phù hợp với quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C.

[2.2] Về con chung: Chị M và anh S thống nhất có 02 (hai) con chung là Đào Hoài T, sinh ngày 10/10/2013 và Đào Hoàng N, sinh ngày 15/3/2016. Khi ly hôn chị M và anh S cùng thống nhất thỏa thuận là chị M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Đào Hoàng N, sinh ngày 15/3/2016. Anh Đào Hoàng S được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Đào Hoài T, sinh ngày 10/10/2013. Xét thấy sự thỏa thuận của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và phù hợp đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử chấp nhận sự thỏa thuận này của các đương sự.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị M, anh S không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Về quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật:

Căn cứ vào Điều 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, anh S, chị M là người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng có quyền đến thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung. Chị M, anh S và các thành viên trong gia đình không được cản trở nhau đến thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung. Vì lợi ích của các con, theo yêu cầu của một bên, các bên hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi về cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị M, anh S không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3] Về án phí: Do chị M là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên chị M phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 235, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào Điều 19, Điều 55, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử :

- Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thanh M và anh Đào Hoàng S.

Giấy chứng nhận kết hôn số 209/2012, quyển số 02/2012, do Uỷ ban nhân dân xã M, huyện C, tỉnh An Giang cấp ngày 24/9/2012 cho chị Nguyễn Thị Thanh M và anh Đào Hoàng S không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thanh M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Đào Hoàng N, sinh ngày 15/3/2016. Anh Đào Hoàng S được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Đào Hoài T, sinh ngày 10/10/2013.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xét, giải quyết.

Chị M, anh S và các thành viên trong gia đình không được cản trở nhau đến thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung.

Vì lợi ích của các con, theo yêu cầu của một bên, các bên hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi về cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

- Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thanh M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) mà chị M đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0003574 ngày 22 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C nên chị M không phải nộp thêm.

- Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Thanh M, anh Đào Hoàng S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 227/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:227/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về