Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH  – TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 18 tháng 03 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 297/2021/TLST-HNGĐ, ngày 18/11/2021 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2022/QĐST-DS, ngày 18/02/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thanh T, sinh năm 1990 (xin vắng) HKTT: R23/22A, CXPL A, Phường A, Quận B, TP. Hồ Chí Minh. Địa chỉ: ấp C, Thị trấn D, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An

- Bị đơn: Anh Võ Phúc H, sinh năm 1983 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp E, xã G, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 18/11/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị Thanh T trình bày: Chị T và anh Võ Phúc H quen biết chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2008 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 08/08/2008.

Trong quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc có 03 con chung, nhưng sau đó anh H thường xuyên tham gia trò chơi mang tính cờ bạc, chị đã nhiều lần thuyết phục nhưng anh H vẫn không từ bỏ, dẫn đến trong cuộc sống hàng ngày không cùng quan điểm sống, không có tiếng nói chung nên vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 10/2019 cho đến nay. Chị và anh H đã nhiều lần thuyết phục, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Võ Phúc H.

Về con chung: Chị T yêu cầu nuôi 03 con chung là Võ Phú N, sinh ngày 19/05/2009, Võ Phú Q, sinh ngày 28/08/2011, Võ Thị Ngọc Q1, sinh ngày 06/8/2016, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Võ Phúc H vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ.

Ngày 18/01/2022, nguyên đơn chị Trần Thị Thanh T có đơn xin vắng mặt, chị có ý kiến trình bày: Chị vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn với anh Võ Phúc H. Về con chung: Chị T yêu cầu nuôi 03 con chung là Võ Phú N, sinh ngày 19/05/2009, Võ Phú Q, sinh ngày 28/08/2011, Võ Thị Ngọc Q1, sinh ngày 06/8/2016, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra đương sự không có yêu cầu nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn chị Trần Thị Thanh T khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con nên đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về “Ly hôn, nuôi con”; bị đơn anh Võ Phúc H cư trú tại xã G, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Nguyên đơn chị Trần Thị Thanh T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt; bị đơn anh Võ Phúc H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử thống nhất đưa vụ án ra xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về pháp luật nội dung:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Qua quen biết chị T và anh H có tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 08/08/2008, do đó hôn nhân của chị T và anh H là hợp pháp và được pháp luật công nhận.

Chị Trần Thị Thanh T trình bày: Trong quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc có 03 con chung, nhưng sau đó anh H thường xuyên tham gia trò chơi mang tính cờ bạc, chị đã nhiều lần thuyết phục nhưng anh H vẫn không từ bỏ, dẫn đến trong cuộc sống hàng ngày không cùng quan điểm sống, không có tiếng nói chung nên vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 10/2019 cho đến nay. Chị và anh H đã nhiều lần thuyết phục, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Võ Phúc H.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân phải được xây dựng trên cơ sở tình cảm tự nguyện, có sự quan tâm, vun đắp hạnh phúc, làm tròn quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, hiện tại chị T và anh H đã sống ly thân, mạnh ai nấy sống. Qua đó cho thấy hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau đã vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T được ly hôn với anh H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: “... Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

[2]. Về con chung của vợ chồng: Chị T và anh H có 03 con chung là Võ Phú N, sinh ngày 19/05/2009, Võ Phú Q, sinh ngày 28/08/2011, Võ Thị Ngọc Q1, sinh ngày 06/8/2016, hiện đang sống với chị T.

Xét thấy việc quyết định giao con cho người cha hoặc người mẹ nuôi dưỡng sau khi ly hôn cần phải dựa trên quyền lợi về mọi mặt của người con, về điều kiện trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Chị T là người đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung; anh Võ Phúc H chưa có văn bản nêu ý kiến của mình đối với việc nuôi con chung, hơn nữa các cháu N, Q có lời khai trình bày nguyện vọng được sống với chị T.

Hội đồng xét xử xét thấy, chị T đang chăm sóc, giáo dục 03 con chung và các cháu có nguyện vọng sống chung với chị T. Do đó để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển của cháu. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị Thanh T là giao các cháu Võ Phú N, sinh ngày 19/05/2009, Võ Phú Q, sinh ngày 28/08/2011, Võ Thị Ngọc Q1, sinh ngày 06/8/2016 cho chị Trần Thị Thanh T tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật.

Anh Võ Phúc H được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.

[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Thị Thanh T chưa yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Chị Trần Thị Thanh T khai không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, 238, 266, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị Thanh T được ly hôn với anh Võ Phúc H.

[2]. Về con chung: Giao các cháu Võ Phú N, sinh ngày 19/05/2009, Võ Phú Q, sinh ngày 28/08/2011, Võ Thị Ngọc Q1, sinh ngày 06/8/2016 cho chị Trần Thị Thanh T tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của các cháu.

Anh Võ Phúc H được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.

[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Thị Thanh T chưa yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trần Thị Thanh T khai không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị Thanh T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn là 300.000đ nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số No 0010309 ngày 18/11/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Chị Trần Thị Thanh T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về