Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 28 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 538/2021/TLST-HNGĐ, ngày 30 tháng 12 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 21 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 18/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 10 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1990

Cư trú: ấp P, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Bà Võ Thị Cẩm T1, sinh năm 1995

Cư trú: khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết nguyên đơn ông Trần Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà T1 tự nguyện tìm hiểu sau đó tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 44/2020, ngày 12/6/2020. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, có nhiều bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Đến tháng 10/2020, bà T1 bỏ về nhà cha mẹ ruột sống và vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân đã trầm trọng không thể hàn gắn và kéo dài nên ông T yêu cầu được ly hôn với bà T1.

Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Trần Văn Thanh T2, sinh ngày 26/10/2019. Hiện con chung đang sống cùng ông T. Sau khi ly hôn, ông T yêu cầu được tiếp tục trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung; không yêu cầu bà T1 phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn bà Võ Thị Cẩm T1 vắng mặt trong quá trình giải quyết, nhưng tại phiên tòa bà trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông T tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 44/2020, ngày 12/6/2020 như ông T trình bày. Do mâu thuẫn đã trầm trọng, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà thống nhất ly hôn theo yêu cầu của ông T.

Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Trần Văn Thanh T2, sinh ngày 26/10/2019. Hiện con chung đang sống cùng ông T. Sau ly hôn, bà đồng ý giao con chung cho ông T tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng; bà không phải cấp dưỡng nuôi con chung do ông T không yêu cầu.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ông Trần Văn T khởi kiện tranh chấp ly hôn với bà Võ Thị Cẩm T1. Bà T1 cư trú tại khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang, nên Tòa án nhân dân thành phố L thụ lý giải quyết là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

[2] Về hôn nhân: Ông T và bà T1 tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng ngày 12/6/2020 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Quá trình giải quyết, ông T xác định không còn tình cảm với bà T1, vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên ông yêu cầu ly hôn. Tại phiên tòa, bà T1 cũng thống nhất ly hôn theo yêu cầu của ông T, không mong muốn hàn gắn gia đình, chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu tiếp tục duy trì sẽ không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T.

[3] Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Trần Văn Thanh T2, sinh ngày 26/10/2019. Xét thấy, từ khi ông T và bà T1 ly thân cháu T2 do ông T trực tiếp chăm sóc; hơn nữa, tại phiên tòa bà T1 cũng thống nhất giao cháu T2 cho ông T tiếp tục nuôi dưỡng. Do đó, để ổn định cuộc sống và đảm bảo cho cháu phát triển tốt về mọi mặt khi ông T và bà T1 ly hôn, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu T2 của ông T.

Về cấp dưỡng nuôi con, cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, đây là quyền lợi của con chưa thành niên. Tuy nhiên, ông T là người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn, không yêu cầu bà T1 phải cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ông T phải tạo điều kiện cho bà T1 được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung Trần Văn Thanh T2. Việc nuôi con không cố định.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Ông T và bà T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đương sự có tranh chấp, khởi kiện vụ kiện khác theo quy định.

[5] Về án phí: Ông Trần Văn T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn T.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Văn T được ly hôn bà Võ Thị Cẩm T1.

- Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Trần Văn Thanh T2, sinh ngày 26/10/2019. Hiện con chung đang sống cùng ông T.

Ông T được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Bà T1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung, do ông T không yêu cầu.

Ông T phải tạo điều kiện cho bà T1 được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

- Về án phí: Ông Trần Văn T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000832, ngày 30/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L. Ông T đã nộp đủ tiền án phí.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về