Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 171/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 171/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 31 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Cà Mau, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 182/2022/TLST-HNGĐ, ngày 05 tháng 4 năm 2022 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 131/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Huỳnh Nh, sinh năm: 1998 (xin vắng mặt). Địa chỉ: Ấp 5, xã KBĐ, huyện T, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Anh Lê Văn L, sinh năm: 1994 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp 5, xã KBĐ, huyện T, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện về việc xin ly hôn ngày 03/4/2022, chị Nguyễn Huỳnh Nh trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Lê Văn L xác lập quan hệ hôn nhân và chung sống vợ chồng vào năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã KBĐ, huyện T, tỉnh Cà Mau năm 2018. Hôn nhân được xác lập trên tinh thần tự nguyện, có tổ chức hỏi cưới theo phong tục, tập quán và được gia đình hai bên chấp thuận.

Quá trình chung sống, chị Nh cho rằng vợ, chồng luôn bất đồng quan điểm, thường xuyên cải nhau, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, từ đó mâu thuẫn kéo dài mà không có cách khắc phục nên chị và anh L đã sống ly thân với nhau.

Do đó, chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L.

- Về con chung: Chị Nh xác định giữa chị và anh L có 02 người con chung là Lê Triệu M, sinh ngày 30/12/2014 và Lê Triệu V, sinh ngày 18/11/2016, hiện đang sống chung với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con; không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Nh xác định không có.

- Về nợ chung: Chị Nh khai rằng giữa chị và anh L không có nợ ai và không ai nợ lại anh, chị.

* Đối với anh Lê Văn L vắng mặt không lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Về loại việc tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án: Tranh chấp giữa chị Nh và anh L là tranh chấp về ly hôn và nuôi con nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với việc vắng mặt của anh L: Mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần đến phiên tòa để tham gia hòa giải và xét xử vụ án, thông qua mẹ ruột của anh L là bà Đặng Thị U (Đặng Thị U Nho) nhận thay các văn bản tố tụng và có cam kết giao lại nhưng anh L vẫn không có ý kiến phản hồi đồng thời cũng không có mặt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh L theo quy định. Đối với việc đề nghị vắng mặt của chị Nh, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vắng mặt chị Nh theo quy định.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Huỳnh Nh và anh Lê Văn L xác lập quan hệ vợ chồng, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán, có đăng ký kết hôn vào năm 2018 và đủ điều kiện kết hôn theo luật định nên hôn nhân được chấp nhận là hợp pháp và được pháp luật công nhận, bảo vệ. Quá trình chung sống, do vợ chồng có nhiều điểm bất đồng trong cuộc sống, thường xuyên cải nhau, dẫn đến tình cảm sức mẻ, không quan tâm, chăm sóc, cảm thông, chia sẻ lẫn nhau. Xét mâu thuẫn thực tế là có nhiều mâu thuẫn, nhận thấy về mục đích hôn nhân không đạt. Bởi lẽ, trong cuộc sống vợ chồng của anh chị, mỗi người đều có cách sống, cách nghĩ khác nhau. Từ đó, giữa vợ chồng đã nhiều lần cải vã, làm mất lòng tin đối với nhau, mỗi người có cuộc sống và mối quan hệ riêng tư, không quan tâm, giúp đở lẫn nhau. Mặt khác, sau khi xảy ra mâu thuẫn, chị Nh và anh L tự sống ly thân nhau để anh, chị tự dung hoà nhằm hàn gắn tình cảm vợ, chồng Nhng không có hiệu quả. Thời gian này để cho anh, chị có điều kiện thử thách bản thân, suy ngẫm về cuộc sống vợ chồng đã qua nhằm tìm cách tháo gỡ, khắc phục khuyết điểm của mỗi bên để vợ, chồng đoàn tụ nhưng không ai có biện pháp gì để khắc phục tình trạng mâu thuẫn và cũng không quan tâm, thăm hỏi, giúp đỡ lẫn nhau. Bên cạnh đó, chị Nh cương quyết ly hôn, nếu không được xem xét thì chị cũng không thể quay lại chung sống với anh L, vì tình cảm không còn và tương lai, hạnh phúc cũng không có. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Nh được ly hôn anh L là có căn cứ.

[3] Về con chung: Xét thấy cháu Lê Triệu M, sinh ngày 30/12/2014 và Lê Triệu V, sinh ngày 18/11/2016, hiện đang sống chung với chị Nh, các cháu là nữ giới đồng thời nguyện vọng cháu M cũng muốn chung sống với chị Nh nên tiếp tục giao các cháu cho chị Nh trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

[4] Về khoản tiền cấp dưỡng nuôi con: Chị Nh không đặt ra yêu cầu nên không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Chị Nh xác định không có nên không xem xét.

[6] Về nợ chung: Chị Nh khai rằng giữa chị và anh L không có nợ ai và không ai nợ lại anh, chị nên không đề cập giải quyết.

[7] Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Huỳnh Nh về việc ly hôn anh Lê Văn L.

2. Về con chung: Tiếp tục giao cháu Lê Triệu M, sinh ngày 30/12/2014 và cháu Lê Triệu V, sinh ngày 18/11/2016 cho chị Nguyễn Huỳnh Nh trực tiếp nuôi dưỡng; không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh Lê Văn L không trực tiếp nuôi con vẫn được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không có.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân và gia đình, chị Nh phải chịu 300.000đ. Ngày 05 tháng 4 năm 2022, chị Nh đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai số: 4631 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Cà Mau được đối trừ chuyển thu.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Quyền kháng cáo: Chị Nh và anh L được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

446
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 171/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:171/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về