Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 15/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH HÀ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 13/7/2022, tại trụ sở TAND huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 134/2022/TLST-HNGĐ ngày 10/5/2022, về việc: Ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/6/2022, Quyết định hoãn phiên toà số 08/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30/6/2022; Thông báo về việc mở phiên toà số 01/2022/TB-TA ngày 06/7/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị P sinh năm 1995, vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ 4, phường Q, thành phố Hoà Bình, tỉnh Hoà Bình.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thiên V sinh năm 1996, vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.

3. Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Văn N sinh năm 1968, vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị T sinh năm 1967, vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ 4, phường Q, thành phố Hoà Bình, tỉnh Hoà Bình.

- Ông Nguyễn Văn H sinh năm 1972, vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn Chị P trình bày: Chị và Anh V kết hôn trên cơ sở tự nguyện tại UBND xã Th nay là xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương vào ngày 09/8/2019. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 06/2020 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm sống, không hợp tính nết, Anh V chơi bời, không tu chí trong việc phát triển kinh tế gia đình, không quan tâm tới vợ con, mặc dù đã được gia đình động viên, khuyên bảo nhưng không thành. Do tình cảm không còn, nên từ tháng 02/2020 vợ chồng sống ly thân, không còn quan tâm tới nhau, việc ai người đó làm. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, Chị P đề nghị ly hôn anh V.

Về con chung: Chị P và anh V có một con Nguyễn Hải Đ sinh ngày 08/12/2019, hiện tại do Chị P nuôi dưỡng. Khi ly hôn, Chị P đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng con, không yêu cầu anh V cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản, nợ, công sức: Chị P không yêu cầu giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định pháp luật nhưng anh V không đến Tòa án làm việc, không gửi văn bản nêu ý kiến quan điểm đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Tại Biên bản lấy lời khai, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, người làm chứng là ông H, ông N, bà T (bố, mẹ củachị P, anh V) đề nghị giải quyết cho chị P ly hôn anh V; giao cháu Đ cho chị P nuôi dưỡng. Ông Hồng xác định đối với toàn bộ các văn bản tố tụng của Tòa án đã giao, thông báo cho Anh V.

Đại diện VKSND huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Việc chấp hành pháp luật của người tiến hành và người tham gia tố tụng (trừ anh V) đã cơ bản thực hiện đúng quy định của pháp luật. Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của UBTVQH. Xử, chị P ly hôn anh V; giao con chung cho chị P nuôi dưỡng, anh V không phải cấp dưỡng tiền nuôi con; chị P phải chịu án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, HĐXX, nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh V được Tòa án triệu tập hợp lệ, hợp pháp nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do; chị P đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX xét xử vụ án vắng mặt những người tham gia tố tụng.

[2] Về hôn nhân: Chị P, anh V kết hôn trên cơ sở tự nguyện tại UBND xã Th nay là xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương vào ngày 09/8/2019, được xác định là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống do hai bên đương sự phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không hợp tính nết, mặt khác trước khi tiến tới hôn nhân cả hai bên tuổi đời còn trẻ, chưa có sự chuẩn bị về tâm lý, kinh tế và những hiểu biết cần thiết cho cuộc sống gia đình, nên khi về ở với nhau thì xảy ra mâu thuẫn nhưng hai bên không đủ bản lĩnh, kỹ năng giải quyết, vượt qua các mâu thuẫn. Vì vậy từ tháng 02/2020 chị P, anh V sống ly thân, không quan tâm đến nhau, việc ai người đó làm. Xác minh tại UBND xã T và người thân trong gia đình của đương sự, đều xác định: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị P, anh V đã trầm trọng, không còn khả năng đoàn tụ. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án, chị P cũng như gia đình của đương sự đã thông báo cho anh V biết, nhưng anh V không không khai báo, không tham gia phiên hòa giải. Điều này chứng tỏ anh V không tha thiết và mong muốn tìm kiếm biện pháp để cải thiện tình trạng hôn nhân với chị P. Như vậy, có đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân giữa các đương sự đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị P và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, xử chị P ly hôn anh V.

[3]. Về con chung: Xác định chị P, anh V có một con là Nguyễn Hải Đ sinh ngày 08/12/2019, hiện tại do chị P nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị P có nguyện vọng xin được nuôi dưỡng, không yêu cầu anh V cấp dưỡng tiền nuôi con, còn anh V không thể hiện quan điểm về việc nuôi dưỡng cháu Đ. Sau khi xem xét quan điểm của đương sự, HĐXX thấy rằng hiện tại cháu Đ chưa đủ 36 tháng tuổi; từ trước đến nay chị P là người nuôi dưỡng và đều đảm các điều kiện về nuôi dưỡng. Căn cứ Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị P và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, giao cháu Đ cho chị P nuôi dưỡng, chị P tự nguyện không yêu cầu anh V cấp dưỡng tiền nuôi con; anh V có quyền thăm nom con.

 [4]. Về tài sản, nợ, công sức: Chị P không yêu cầu, nên HĐXX không giải quyết.

 [5]. Về án phí: Chị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 147, 227, 228, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 58; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị P ly hôn anh Nguyễn Thiên V.

- Về con chung: Giao con Nguyễn Hải Đ sinh ngày 08/12/2019 cho chị Nguyễn Thị P tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, kể từ tháng 7/2022 cho đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị P tự nguyện không yêu cầu anh Nguyễn Thiên V phải cấp dưỡng tiền nuôi con. Anh V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị P phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000đ, theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2020/0003488 ngày 09/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.

- Về quyền kháng cáo: Các bên đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 15/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Hà - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về