Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 146/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 146/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 17 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 203/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 95/2022/QĐST-DS ngày 27/7/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bích Ng, sinh năm 1985; địa chỉ: khu phố B, thị trấn T, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Tạ Xuân Th, sinh năm 1980; địa chỉ: Tổ A, đường T, phường T, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 12 tháng 02 năm 2022 và quá trình tố tụng nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích Ng trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Tạ Xuân Th tự nguyện tìm hiểu và xác lập quan hệ hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tiên Phong, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam vào năm 2009, trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, đã ly thân từ năm 2019 đến nay. Hiện nay chị xác định không thể tiếp tục chung sống với anh Th nên yêu cầu được ly hôn với anh Tạ Xuân Th.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Tạ Xuân D, sinh ngày 10 tháng 01 năm 2016. Sau khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con và không yêu cầu anh Thanh cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Tạ Xuân Th đã được Tòa án triệu tập lên cung cấp bản tự khai và tham gia hòa giải vào các ngày 15/4/2022, 05/5/2022 và tham gia phiên tòa vào các ngày 27/7/2022 và 17/8/2022 nhưng vắng mặt không có lý do nên không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị Ng, không cung cấp tài liệu chứng cứ và cũng không có ý kiến yêu cầu triệu tập thêm người tham gia tố tụng.

- Tại công văn trả lời xác minh thông tin đương sự ngày 20/5/2022, Hội Liên hiệp phụ nữ thị trấn Tiên Kỳ cung cấp thông tin như sau: Hội liên hiệp phụ nữ thị trấn không rõ quá trình chung sống tại địa phương về hôn nhân, vấn đề chăm sóc nuôi dạy con và nguyên nhân mâu thuẫn trong cuộc sống giữa chị Ng và anh Th vì từ trước đến nay Hội liên hiệp phụ nữ thị trấn không nhận được thông tin và đơn đề nghị hòa giải hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Bích Ng và anh Tạ Xuân Th tại cơ sở.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã được thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng Dân sự, tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Sự chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các quy định pháp luật liên quan. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 để xét xử vắng mặt bị đơn.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án nhận thấy yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là có cơ sở theo quy định pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích Ng có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn anh Tạ Xuân Th đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa vào các ngày 27/7/2022 và 17/8/2022 nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự Tòa án xét xử vắng mặt chị Ng và anh Th.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Bích Ng và anh Tạ Xuân Th là vợ chồng có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 12, quyển số 01/2009 ngày 30/4/2009 tại Ủy ban nhân dân xã Tiên Phong, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[3] Theo đơn khởi kiện và lời trình bày trong quá trình tố tụng nguyên đơn xác định mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình không hợp nhau, vợ chồng đã có thời gian sống ly thân từ năm 2019 đến nay, anh chị không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau và không còn cùng nhau chăm sóc con cái. Quá trình tố tụng Tòa án đã triệu anh Th để hòa giải nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh Thanh bỏ mặc không quan tâm đến hòa giải đoàn tụ, hàn gắn quan hệ hôn nhân gia đình. Như vậy, chứng tỏ mục đích của cuộc hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn đã thực sự trầm tr ng không thể hàn gắn vì vậy yêu cầu xin ly hôn của chị Ng là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Vợ chồng anh chị có 01 con chung tên Tạ Xuân D, sinh ngày 10/01/2016. Chị Ng có nguyện v ng trực tiếp nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn do từ lúc sinh bé ra đến nay chị Ng là người trực tiếp nuôi con nhưng đến tết năm 2022 anh Th về quê đã tự ý đưa con vào Bình Dương sinh sống với mình. Quá trình tố tụng anh Th không có ý kiến về việc trực tiếp nuôi dưỡng con và cấp dưỡng. Xét, việc giao con cho ai chăm sóc phải đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho con, con chung do chị Ng nuôi dưỡng từ nhỏ nên giao con chung cho chị Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng sau khi ly hôn là có căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ giao con chung Tạ Xuân D, sinh ngày 10/01/2016 cho chị Ng trực tiếp nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện của chị Ng không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Từ những phân tích trên, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An là có cơ sở chấp nhận.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Bích Ng phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147, các Điều 229, 235, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 55, 58 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Bích Ng được ly hôn với anh Tạ Xuân Th (giấy chứng nhận kết hôn số 12, quyển số 01 ngày 30/4/2009 tại Ủy ban nhân dân xã Tiên Phong, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam).

2. Về con chung: Buộc anh Tạ Xuân Th giao con chung tên Tạ Xuân D, sinh ngày 10/01/2016 cho chị Nguyễn Thị Bích Ng trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Th không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn chị Ng, anh Th phải tạo điều kiện cho nhau trong việc chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu, Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Bích Ng phải chịu 300.000 ba trăm nghìn đồng án phí ly hôn được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003657 ngày 04 tháng 4 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật/.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 146/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:146/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về