Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 108/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 108/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 19 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 645/2021/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình “Ly hôn, nuôi con”, theo Quyết Đ đưa vụ án ra xét xử số: 165/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 7 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Võ Thị Hồng L – sinh năm 1988; Cư trú tổ 8 ấp LĐ, xã LK, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Có mặt.

2. Bị đơn: anh Trần Thanh B – sinh năm 1989; Nơi cư trú: số tổ 8 ấp LĐ, xã LK, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị L trình bày: chị và anh B quen biết và tiến tới hôn nhân 2005 và có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không tôn trọng nhau, thường xuyên bất hòa và không còn chung sống với nhau từ tháng 01/2021. Nhận thấy tình cảm không còn yêu cầu được ly hôn với anh B.

Về con chung: Vợ chồng có 04 con chung tên Trần Văn Đ, sinh ngày 6/01/2006; Trần Tiến Đ1, sinh ngày 17/7/2009; hiện đang sống với ông B; Trần Thị Huỳnh N, sinh ngày 15/10/2011 và Trần Quốc H, sinh ngày 10/3/2017. Khi ly hôn yêu cầu được tiếp tục nuôi 2 con chung tên Như và H; đồng ý để ông B nuôi cháu Đ và Đ1. Về cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Bị đơn anh Trần Thanh B vắng mặt và cũng không gởi ý kiến đến Tòa án nên không ghi nhận được ý kiến của anh B.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy Đ của pháp luật. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là đúng quy Đ. Về ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về hôn nhân: chị L anh B kết hôn và có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng sống chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và không còn chung sống với nhau từ năm 2021, trong thời gian nay hai bên cũng không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn; cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không Đ1 được việc chị L xin ly hôn là có cơ sở. Về con chung vợ chồng có 04 con chung tên Trần Văn Đ, sinh ngày 6/01/2006; Trần Tiến Đ1, sinh ngày 17/7/2009; hiện đang sống với ông B; Trần Thị Huỳnh N, sinh ngày 15/10/2011 và Trần Quốc H, sinh ngày 10/3/2017. Khi ly hôn yêu cầu được tiếp tục nuôi 2 con chung tên Như và H; đồng ý để ông B nuôi cháu Đ và Đ1 không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Trong quá trình giải quyết anh B cũng không có ý kiến phản đối. Do đó, chị L xin ly hôn anh B và yêu cầu tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung Trần Thị Huỳnh N, sinh ngày 15/10/2011 và Trần Quốc H, sinh ngày 10/3/2017, đồng ý để anh B nuôi cháu Đ và cháu Đ1 là phù hợp Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận Đ:

[1].Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn có nơi cư trú tại xã LK, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy Đ tại các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt không có lý do căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là có căn cứ.

[2].Về nội dung tranh chấp: chị L và anh B kết hôn và có đăng ký kết hôn theo quy Đ của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân giữa được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Theo chị L trình bày, trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng không tôn trọng nhau, anh B thường xuyên uống rượu không quan tâm đến gia đình, cả hai đã cố gắng hàn gắn nhưng không được đến năm 2021 thì không còn chung sống với nhau. Nhận thấy, tình cảm không còn, chị L yêu cầu ly hôn với anh B. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về việc chị L yêu cầu ly hôn và triệu tập anh B tham gia các phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa, nhưng anh B vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của chị L. Xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa chị L, anh B đã diễn ra trong thời gian dài, nguyên nhân do vợ chồng hay bất đồng quan điểm, anh B thường hay uống rượu không quan tâm đến gia đình. Đến đầu năm 2021 thì không còn chung sống với nhau đến nay. Trong thời gian này, hai bên cũng không tạo điều kiện cho nhau hàn gắn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu chung sống với nhau cũng không hạnh phúc. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L xin ly hôn anh B.

[3] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 04 con chung tên Trần Văn Đ, sinh ngày 6/01/2006; Trần Tiến Đ1, sinh ngày 17/7/2009; hiện đang sống với ông B; Trần Thị Huỳnh N, sinh ngày 15/10/2011 và Trần Quốc H, sinh ngày 10/3/2017 hiện đang sống với chị L. Khi ly hôn yêu cầu được tiếp tục nuôi 2 con chung tên Như và H; đồng ý để ông B nuôi cháu Đ và Đ1. Về cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu. Xét thấy con chung hiện mỗi người nuôi hai cháu cuộc sống cũng đã ổn Đ, các cháu vẫn được đi học và phát triển B thường. Vì vậy, nghĩ nên giao cho chị L được tiếp tục nuôi Như và cháu H, anh B được tiếp tục nuôi cháu Đ và cháu Đ1; hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con lẫn nhau.

[4] Về quan hệ tài sản chung: không yêu cầu giải quyết.

[5] Về quan hệ nợ chung: không có.

[6] Án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị L phải chịu là 300.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy Đ về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Hồng L xin ly hôn anh Trần Thanh B.

Giấy chứng nhận kết hôn số 150 ngày 10 tháng 12 năm 2015 do Ủy ban nhân dân xã Long Kiến, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp không còn giá trị pháp lý.

- Về quan hệ con chung: Chị Võ Thị Hồng L được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng 02 con chung tên Trần Thị Huỳnh N, sinh ngày 15/10/2011 và Trần Quốc H, sinh ngày 10/3/2017; anh Trần Thanh B được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng 02 con chung tên Trần Văn Đ, sinh ngày 6/01/2006; Trần Tiến Đ1, sinh ngày 17/7/2009.

Chị L, anh B cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở chị L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết Đ thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy Đ.

- Về quan hệ tài sản chung: các bên không yêu cầu giải quyết.

- Về quan hệ nợ chung: Không có. Ghi nhận việc chị L anh B Đ không có nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng sau khi quyết Đ ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thì chị L, anh B phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, chị Võ Thị Hồng L phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, theo biên lai thu số 0009967 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 30/12/2021.

Báo cho các bên đương sự biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy Đ tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy Đ tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy Đ tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 108/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:108/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về