Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 93/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 93/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 24 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 197/2021/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 10 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2021/QĐXX-ST ngày 08/11/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lý Thị Ngh, sinh năm 1998; Đăng ký HKTT: Thôn Đ, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

Địa chỉ hiện nay: Thôn T, xã M, huyện V, tỉnh Hà Giang

2. Bị đơn: Anh Bùi Văn T, sinh năm 1992;

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình (Chị Ngh, anh T đều có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn là chị Lý Thị Ngh có yêu cầu khởi kiện và trình bày tại phiên tòa như sau:

Về hôn nhân: Chị và anh Bùi Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn vào ngày 29/11/2019 tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Trước khi kết hôn với anh T chị Ngh đã từng kết hôn và đã ly hôn vào tháng 9/2019. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh T ở thôn Đ, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Vợ chồng chung sống hòa thuận được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, anh T thường xuyên đánh đập chị, lăng mạ, xúc phạm chị và gia đình nhà chị. Mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng vào ngày 02/7/2021 chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã M, huyện V, tỉnh Hà Giang sinh sống, vợ chồng ly thân. Chị muốn đưa con đi cùng nhưng gia đình nhà chồng ngăn cản. Sau đó xin được việc làm công nhân tại thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Văn T.

Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung là Bùi Thiên Ph, sinh ngày 23/11/2019. Ly hôn chị Ngh có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con, anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Lý do chị nhận nuôi con vì con chung còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi cần sự chăm sóc của chị nhiều hơn. Chị Ngh hiện đang làm công nhân tại thành phố H với mức thu nhập 10.000.000 đồng/tháng, điều kiện sinh hoạt của chị đều có đầy đủ để chăm sóc con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ngh không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Tại bản tự khai, các tài liệu chứng cứ đã xuất trình và tại phiên tòa, bị đơn là anh Bùi Văn T trình bày:

Về hôn nhân: Anh xác nhận về thời gian, hoàn cảnh, điều kiện kết hôn như chị Ngh trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình anh tại Thôn Đ, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Vợ chồng chung sống hòa thuận được 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp. Khoảng tháng 6/2021 chị Ngh đã tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở Hà Giang sinh sống. Trong thời gian chị Ngh bỏ về anh đã nhiều lần gọi điện và nhắn tin nhưng chị Ngh không nghe máy. Anh có ý định lên Hà Giang tìm chị nhưng do dịch bệnh không đi lại được nên anh không lên tìm chị. Nay chị Ngh có đơn xin ly hôn, anh đồng ý ly hôn với chị Lý Thị Ngh.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung đúng như chị Ngh trình bày, khi ly hôn anh xin được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị Ngh phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay anh đang làm việc tại Công ty TNHH S Chi nhánh Q có thu nhập hàng tháng là 8.000.000 đồng, chị Ngh có quyền thăm nom con chung. Lý do anh nhận nuôi con vì anh muốn con chung có một cuộc sống tốt hơn không muốn cháu phải thua thiệt bạn bè cùng trang lứa. Không muốn con chung bị ảnh hưởng lối sống cũng như nhân phẩm và nhân cách của người mẹ. Ngoài anh muốn chị Ngh thực hiện đúng như lời nói như chị Ngh đã nói trước khi bước chân ra khỏi nhà là không cần bất cứ một thứ gì kể cả cả con.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

- Tại biên bản xác minh với bà Nguyễn Thị O (là mẹ đẻ anh T), địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình, bà O trình bày: Việc kết hôn giữa chị Lý Thị Ngh, anh Bùi Văn T như anh chị trình bày là đúng. Quá trình chung sống bà không thấy vợ chồng có mâu thuẫn gì với nhau. Khoảng tháng 6/2021 chị Ngh tự ý bỏ đi đâu gia đình bà không nắm rõ; Về con chung: Vợ chồng chị Ngh, anh T có 01 con chung là Bùi Thiên Ph, sinh ngày 23/11/2019 đúng như anh, chị trình bày. Chị Ngh có đơn xin ly hôn anh T gia đình bà đề nghị Tòa án căn cứ nguyện vọng của vợ, chồng đề giải quyết. Về con chung bà đề nghị Tòa án giao con chung cho anh T được nuôi dưỡng và không yêu cầu chị Ngh phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Lý do vì chị Ngh đã có con riêng với người chồng trước. Chị Ngh đi làm công ty không có điều kiện chăm sóc con chung, ngoài ra gia đình chị Ngh chật chội không đủ điều kiện nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có.

- Tại biên bản xác minh với cơ sở Thôn Đ, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình, cơ sở thôn cung cấp như sau: Việc kết hôn giữa chị Lý Thị Ngh, anh Bùi Văn T như anh chị trình bày là đúng. Quá trình chung sống giữa vợ chồng cơ sở thôn thấy vợ chồng đôi khi có lời qua tiếng lại với nhau. Khoảng tháng 6/2021 vợ chồng có xảy ra va chạm với nhau hàng xóm có sang khuyên bảo sau đó chị Ngh không ở cùng gia đình nhà chồng. Sau khi chị Ngh bỏ đi chị có về gia đình để đón con chung đi nhưng mẹ đẻ anh T không đồng ý nên hai người đã giằng co cháu bé, hàng xóm láng giềng phải ra khuyên ngăn.Nay chị Ngh có đơn xin ly hôn anh T cơ sở thôn đề nghị Tòa án xem xét nguyện vọng của hai bên và quy định của pháp luật để giải quyết; Về tài sản chung, nợ chung: Cơ sở thôn không nắm rõ.

- Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Về ý kiến giải quyết vụ án, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 55, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết theo hướng: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lý Thị Ngh và anh Bùi Văn T; Về con chung: Đề nghị giao con chung Bùi Thiên Ph, sinh ngày 23/11/2019 (con chung dưới 36 tháng tuổi) cho chị Ngh trực tiếp nuôi dưỡng, chị Ngh không yêu cầu anh T phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Nguyên đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị Ngh, anh T là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân, con chung của vợ chồng, vì vậy Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân của chị Ngh, anh T được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q vào ngày 29/11/2019, đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do không tìm được tiếng nói chung, thiếu sự chia sẻ, cảm thông với nhau. Quá trình thụ lý, giải quyết, Tòa án đã hòa giải, động viên để hai bên đoàn tụ song không có kết quả. Cả chị Ngh, anh T đều thống nhất đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Do đó, có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng chị Ngh, anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần công nhận sự thuận tình ly hôn của chị Ngh, anh T là phù hợp quy định theo Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Bùi Thiên Ph, sinh ngày 23/11/2019. Chị Ngh, anh T đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, nguyện vọng nuôi con chung của anh, chị là chính đáng, cả hai đều đi làm có thu nhập, có điều kiện chăm sóc con. Trong quá trình xác minh gia đình anh T có trình bày chị Ngh còn phải nuôi dưỡng con riêng với chồng trước đã ly hôn tuy nhiên tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 107/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang thể hiện chị Lý Thị Ngh và người chồng trước là anh Phàn Chuẩn V không có con chung. Chị Ngh cũng có tìm về đón con nhưng gia đình anh T không đồng ý, thể hiện chị Ngh có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung. Trong quá trình giải quyết Tòa án đã phân tích quy định cả pháp luật về việc nuôi dưỡng con chung cho anh chị nhưng không có kết quả, chị Ngh và anh T đều không thống nhất được việc nuôi dưỡng con chung. Do đó, để tạo điều kiện tốt nhất cho con chung và theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cần giao con chung Bùi Thiên Ph cho chị Ngh trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Ngh không yêu cầu anh T góp tiền cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra giải quyết. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ngh, anh T đều không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Lý Thị Ngh phải nộp án phí dân sự sơ thẩm; các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lý Thị Ngh và anh Bùi Văn T.

2. Về con chung: Giao cho chị Lý Thị Ngh trực tiếp nuôi dưỡng con chung Bùi Thiên Ph, sinh ngày 23/11/2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi theo quy định của pháp luật. Chị Ngh không yêu cầu anh T phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra để giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lý Thị Ngh phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được đối trừ với tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai số 0004486 ngày 11/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Chị Ngh đã nộp đủ tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lý Thị Ngh, anh Bùi Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (24/11/2021)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 93/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:93/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về