TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 76/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Trong ngày 03 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 192/2021/TLST – HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2021, về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 85/2021/QĐXXST- HNGĐ, ngày 01 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị H, sinh năm 1992 (có mặt) Nơi cư trú: Thôn 3, xã N, huyện B, tỉnh P.
- Bị đơn: Anh C, sinh năm 1993 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn 12, xã T, huyện B, tỉnh P.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ngày 04/5/2021, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị H trình bày: Chị và và anh C, sinh năm 1993 tự nguyện tìm hiểu, chung sống với nhau từ năm 2011, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh P. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến khoảng giữa năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân của việc mâu thuẫn là do tính tình không hợp, anh C không quan tâm gia đình, không chăm sóc con cái, cuộc sống không có tiếng nói chung. Chị và anh C đã sống ly thân từ cuối năm 2020 cho đến nay, nay chị thấy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống thêm được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh C.
Về con chung: Chị và anh C có 02 con chung là N, sinh năm 2017 và 01 con trai sinh năm 2020 chưa làm giấy khai sinh, tên thường gọi là A. Sau khi ly hôn chị1 yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả hai con cho đến khi trưởng thành; chị yêu cầu anh C phải cấp dưỡng cho con hàng tháng, mỗi tháng 1.000.000 đồng/ 01 con cho đến khi con đủ tuổi trưởng thành.
Về tài sản, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Tại biên bản ghi lời khai ngày 31/5/2021, biên bản hoà giải về quan hệ hôn nhân ngày 31/5/2021 anh C trình bày: Anh xác nhận anh và chị H tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2016, đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện B, tỉnh P là đúng. Vợ chồng không có mâu thuẫn gì, thời gian đầu sau khi cưới anh ở rể nhà chị H ở thôn 3, xã N; đến cuối năm 2019 thì đưa vợ con về nhà anh ở tại thôn 12, xã T, huyện B, tỉnh P. Trong thời gian ở tại thôn 12, xã T anh và chị H cũng không có mâu thuẫn gì, chỉ có chị H vài lần cãi nhau với chị gái ruột của anh rồi tự ý bỏ về nhà mẹ ruột chị H từ tháng 12/2020 cho đến nay. Hiện nay, chị H yêu cầu ly hôn, anh không đồng ý vì theo anh mâu thẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng. Về con chung, anh và chị H có 02 con chung là N, sinh năm 2017 và 01 con sinh ngày 30/10/2020 chưa đăng ký giấy khai sinh, tên thường gọi là A như chị H trình bày là đúng. Trường hợp ly hôn anh có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung, không yêu cầu chị H cấp dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trình bày ý kiến, quan điểm về vụ án: Về thủ tục tố tụng: Việc Tòa án thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền, đảm bảo thủ tục tố tụng; Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị H được ly hôn với anh C; Về con chung, giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung; Buộc anh C cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng mỗi con một triệu đồng cho đến khi con chung thành niên; Buộc nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm; bị đơn phải chịu án phí về cấp dưỡng nuôi con theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận phiên Toà, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh C tự nguyện tìm hiểu tiến tới hôn nhân, được Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh P cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 74/2016, ngày 02/8/2016, nên quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh C là hôn nhân là hợp pháp.
Sau khi kết hôn chị H và anh C chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, anh C không quan tâm gia đình, không chăm sóc con cái, vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày; ngoài ra chị H còn có mâu thuẫn với gia đình anh C, nên chị bỏ về nhà mẹ ruột sống ly thân từ tháng 12/2020 cho đến nay. Chị H xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể tiếp tục chung sống nên yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn với anh C; Anh C cho rằng mâu thẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng, anh vẫn còn thương vợ con nên không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị H; Ngày 31/5/2021 Toà án đã tiến hành hoà giải đoàn tụ giữa hai bên, nhưng chị H cương quyết yêu cầu được ly hôn chới anh C; Toà án tiếp tục thông báo mở phiên họp hoà giải vào các ngày 30/6/2021 và 27/10/2021 nhưng anh C không đến tham gia phiên hoà giải theo thông báo cảu Toà án.
Tại phiên toà, anh C vắng mặt, chị H giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh C. Như vậy, thể hiện mặc dù có lời khai anh C trình bày không đồng ý ly hôn vì thấy mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng và còn thương vợ con; Tuy nhiên, anh C không có giải pháp nào để hàn gắn hạnh phúc gia đình; không tham gia phiên hoà giải và phiên toà sơ thẩm, coi như anh C đã tự từ bỏ quyền chứng minh để bảo vệ ý kiến quan điểm của mình nên Toà án không có cơ sở để chấp nhận ý kiến của anh C.
Từ những căn cứ trên thể hiện mâu thuẫn giữa chị H và anh C là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của chị H là có cơ sở cần được chấp nhận.
[2] Về con chung: Chị H và anh C có 02 con chung là N, sinh năm 2017 và 01 con trai sinh ngày 30/10/2020 chưa đăng ký khai sinh, hiện do chị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng từ khi hai vợ chồng ly thân. Nay chị H có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả 02 con chung, yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng mỗi con một triệu đồng cho đến khi con chung thành niên; Anh C cũng có nguyện vọng sau khi ly hôn được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung.
Xét thấy, hiện nay các con chung của anh C và chị H đều còn nhỏ tuổi cần sự chăm sóc. Nuôi dưỡng trực tiếp của người mẹ hơn; ngoài ra, theo chị H trình bày thì kể từ khi hai vợ chồng ly thân đến nay anh C không thăm nom vợ con, không phụ chị về kinh tế để nuôi dưỡng con chung, thể hiện anh C thiếu trách nhiệm về nuôi dưỡng con chung; Bản thân anh C cũng không chứng minh được khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, để đảm bảo sự phát triển của con chưa thành niên, cần giao con chung cho chị H tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị H yêu cầu anh C cấp dưỡng 1.000.000đ/tháng/con cho đến khi các con thành niên. Do anh C không đến Toà án để trình bày ý kiến của mình, đồng thời mức cấp dưỡng nuôi con chị H yêu cầu phù hợp với mức thu nhập của lao động phổ thông ở địa phương như anh C; phù hợp với điều kiện nuôi dưỡng con chung của chị H, nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H, buộc anh C phải cấp dưỡng nuôi con cho chị H mỗi con, mỗi tháng 1.000.000đ cho đến khi con chung thành niên.
[3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không ai yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm; bị đơn phải chịu án phí về cấp dưỡng nuôi con chung.
[5] Quan điểm về giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cắn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 81, Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 35; khoản 4 Điều 147, 161, 218 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH16 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
1/ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn H đối với bị đơn C; Xử cho chị H được ly hôn với anh C.
2/ Về con chung: Giao 02 con chung của chị H với anh C là N, sinh năm 2017 và 01 con trai sinh ngày 30/10/2020 theo giấy chứng sinh ngày 30/10/2020 của Bệnh viện đa khoa tỉnh P cho chị H trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
Buộc anh C phải cấp dưỡng nuôi 02 con chung số tiền 1.000.000đ/con/tháng, thời hạn cấp dưỡng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; Đồng thời có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.
Người không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm nom, cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
3/ Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp trước là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 016224 ngày 10/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước; Anh C phải nộp 300.000đ án phí về cấp dưỡng nuôi con.
4/ Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 76/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 76/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 03/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về