TÒA ÁN NH DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 02 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Toà án nH dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 335/2020/TLST- HNGĐ ngày 30 tháng 11 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXX-ST ngày 15 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 04/2021/QĐST- HNGĐ ngày 02 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị K, sinh năm 1992
2. Bị đơn: Anh Đinh Danh Ph, sinh năm 1992 Đều ở địa chỉ: Thôn Tr, xã Ch, huyện H, tỉnh Thái Bình.
(Tại phiên toà có mặt chị K; anh Ph vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị K trình bày:
Chị kết hôn tự nguyện với anh Đinh Danh Ph và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nH dân xã Chi Lăng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình vào ngày 31/12/2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận đến cuối năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh Ph có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác. Vợ chồng đã ly tH từ đầu năm 2020 cho đến nay. Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn và xin ly hôn anh Ph.
Chị và anh Ph có 03 con chung là Đinh Ngọc Gia Nh, sinh ngày 14/8/2012;
Đinh Ngọc Gia H, sinh ngày 20/6/2015 và Đinh Ngọc Gia L, sinh ngày 08/8/2019. Hiện nay hai con Gia Nh và Gia L đang ở cùng với chị còn con Gia H đang ở cùng với anh Ph. Quá trình chuẩn bị xét xử, chị xin trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Gia Nh và Gia L còn anh Ph nuôi dưỡng con Gia H. Chị K không yêu cầu anh Ph phải góp cấp dưỡng nuôi con chung và hai bên không phải góp cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Tại phiên tòa, chị K xin trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung và chị không yêu cầu anh Ph phải góp cấp dưỡng nuôi ba con chung.
Về tài sản: Chị K không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.
Bị đơn là anh Đinh Danh Ph trong biên bản lấy lời khai tại gia đình anh Ph đã xác nhận về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn đúng Nh chị K trình bày. Sau khi kết hôn, vợ chồng hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do chị K ghen tuông hay gây sự, vợ chồng bất đồng quan điểm sống dẫn đến cãi nhau. Chị K đã bỏ về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ từ tháng 12/2020 cho đến nay, anh không đi tìm chị K về nữa mặc dù trước đây anh đã đi tìm nhiều lần. Anh không đồng ý ly hôn vì con còn nhỏ, không muốn con thiếu bố hoặc thiếu mẹ. Nếu ly hôn, anh xin trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung và anh không yêu cầu chị K phải góp cấp dưỡng nuôi ba con chung cho anh. Về tài sản, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến tại phiên toà: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai Nhng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt bị đơn.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; về quan hệ hôn nhân cần xử cho chị K được ly hôn anh Ph; về quan hệ con chung: cần xử giao cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Gia Nh và Gia L; giao cho anh Ph trực tiếp nuôi dưỡng con Gia H. Hai bên không phải góp cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau; về quan hệ tài sản không đặt ra giải quyết. Chị K phải chịu án phí hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai Nhng vẫn vắng mặt tại phiên toà. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa chị K và anh Ph xây dựng trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, theo chị K khai vợ chồng chung sống hòa thuận đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do anh Ph có quan hệ ngoại tình; vợ chồng không còn tình cảm và đã ly tH từ đầu năm 2020 cho đến nay. Chị K cương quyết xin ly hôn anh Ph còn anh Ph không đồng ý ly hôn vì con cái. Tuy nhiên, Tòa án đã triệu tập nhiều lần Nhng anh Ph không đến Tòa án làm việc và Tòa án không tiến hành hòa giải được. Điều đó cho thấy cả hai bên không có thiện chí và không có giải pháp nào để đoàn tụ vợ chồng. Xét mâu thuẫn giữa chị K và anh Ph đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho chị K được ly hôn anh Ph là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
Về nuôi dưỡng con chung: Xét nguyện vọng xin được nuôi dưỡng con chung của chị K, anh Ph đều chính đáng và cả hai bên đều có điều kiện nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, để đảm bảo điều kiện tốt nhất trong việc nuôi dưỡng con chung, cần giao cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Gia Nh và Gia L; giao cho anh Ph trực tiếp nuôi dưỡng con Gia H Nh yêu cầu của chị K là phù hợp với các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.
Về quan hệ tài sản: Chị K và anh Ph đều không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản.
[3] Về án phí: Chị K phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị K được ly hôn anh Đinh Danh Ph.
2. Về quan hệ con chung: Xử giao cho chị Nguyễn Thị K trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Đinh Ngọc Gia Nh, sinh ngày 14/8/2012 và Đinh Ngọc Gia L, sinh ngày 08/8/2019; giao cho anh Đinh Danh Ph trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đinh Ngọc Gia H, sinh ngày 20/6/2015. Chị K không yêu cầu anh Ph phải góp cấp dưỡng nuôi con chung; Chị K và anh Ph không phải góp cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị K phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị K đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0006243 ngày 30/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình thành tiền án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị K có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Đinh Danh Ph có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận thông báo hoặc niêm yết công khai
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 16/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 16/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 02/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về