Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 143/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 143/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 19 tháng 5 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 479/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2021, về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Đặng Văn P. Sinh năm: 1986 (xin vắng mặt).

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N. Sinh năm: 1990 (vắng mặt).

Cùng Địa chỉ: Ấp S, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu trong quá trình tố tụng, ông Đặng Văn P trình bày:

Về hôn nhân: Ông P và bà N kết hôn năm 2012, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần Văn Thời theo quy định pháp luật, hiện vợ chồng ông đã ly thân nhau. Xét thấy cuộc sống chung không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn thường xuyên xảy ra và không hàn gắn được nên ông yêu cầu ly hôn với bà N.

Về con chung: Có 02 người con chung, cháu Đặng Thị Bảo T, sinh ngày 30/4/2009, cháu Đặng Duy D, sinh ngày 05/6/2011, các cháu chưa thành niên hiện cháu T, D sống cùng ông P, khi ly hôn ông yêu cầu được nuôi dưỡng các cháu, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đã tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng cho bị đơn Nguyễn Thị N đúng theo quy định pháp luật nhưng bà N không có văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn bà Nguyễn Thị Mộng N có nơi cư trú tại ấp Sào Lưới, xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Đặng Văn P khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với bà Nguyễn Thị N, yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, nên quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là " Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung." theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông P là người khởi kiện, bà N là người bị kiện nên xác định tư cách đương sự ông P là nguyên đơn, bà N là bị đơn theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông P có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bà N đã được tòa án tống đạt, niêm yết triệu tập xét xử hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ theo Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Tòa án xét xử vắng mặt ông P, bà N theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông bà tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau vào năm 2012 đúng theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa ông bà được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, hiện ông bà đã ly thân nhau. Ông P xác định không còn tình cảm vợ chồng với bà N và thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn. Trường hợp nếu cho các bên tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của ông P được ly hôn với bà N.

[3] Về con chung: Có 02 người con chung, cháu Đặng Thị Bảo T, sinh ngày 30/4/2009, cháu Đặng Duy D, sinh ngày 05/6/2011, các cháu chưa thành niên hiện cháu T, D sống cùng ông P, khi ly hôn ông yêu cầu được nuôi dưỡng các cháu, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, từ trước đến nay cháu T, D sống cùng với ông P, ông là người trực tiếp nuôi dưỡng các cháu, bà N không thường siêng bên cạnh để chăm sóc các cháu, Tòa án có tiến hành ghi nhận ý kiến trình bày của cháu T, D và các cháu có nguyện vọng được sống cùng với ông P. Bà N không gửi ý kiến của mình trước yêu cầu của nguyên đơn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu T, D cho ông P tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với sự phát triển ổn định vốn có của các cháu và đúng với quy định của pháp luật. Do ông P không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Ông P xác định không có, không yêu cầu tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc ông P phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình, bà N không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 và khoản 3 Điều 68, khoản 4 Điều 147, khoản 1 và khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 238, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 9, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Luật hôn nhân và gia đìnhđiểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn P về việc yêu cầu được ly hôn với bà Nguyễn Thị N.

2. Về con chung: Giao con chung cháu Đặng Thị Bảo T, sinh ngày 30/4/2009, cháu Đặng Duy D, sinh ngày 05/6/2011 cho ông Đặng Văn P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu T, D đủ 18 tuổi. Bà N không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí: Ông Đặng Văn P phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình, ông có nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004241 ngày 15 tháng 12 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được chuyển thu.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 143/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:143/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về