Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 08/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AYUN PA, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 01 tháng 9 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 31/2021/TLST- HNGĐ, ngày 15 tháng 4 năm 2021, về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2021/QĐXX-ST, ngày 11 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Bảo H, sinh năm 1993 Địa chỉ: Số 169 Lê Hồng P, tổ 3, phường Đ, thị xã A, tỉnh G. Có mặt

Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng H, sinh năm 1991 Địa chỉ: Số 20 Hai Bà T, tổ 4, phường S, thị xã A, tỉnh G. Anh H vắng mặt không lý do, dù đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện ngày 14/4/2021; bản tự khai lập ngày 15/4/2021 và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Bảo H trình bày:

Chị và anh Htự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND phường S, thị xã A, tỉnh G vào ngày 04/5/2017. Từ sau kết hôn đến nay vợ chồng chung sống không hạnh phúc vì không cùng quan điểm sống. Anh H thường xuyên nhậu nhẹt, cờ bạc, không quan tâm đến cuộc sống gia đình. Hiện tại chị và anh Hải đã ly thân từ tháng 12/2020 cho đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị và anh H có 01 con chung là Nguyễn Quốc A, sinh ngày 10/6/2017. Sau khi ly hôn chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 3.000.000đ/tháng đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vợ chồng không nợ tài sản của ai và không ai nợ vợ chồng.

Tại bản khai lập ngày 06/8/2021, bị đơn anh Nguyễn Hoàng H trình bày:

Anh H thống nhất với lời khai của chị H về việc kết hôn giữa hai bên, việc nuôi con chung và tài sản của vợ chồng. Về cuộc sống chung của vợ chồng theo anh thì thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng tới năm 2018 vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn không hòa hợp, bất đồng quan điểm. Đến thời điểm tháng 12/2020 thì chị H bỏ về nhà cha mẹ đẻ sống cho đến nay. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn với chị H.

Anh H đồng ý để chị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Anh sẽ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 3.000.000đ/ tháng đến khi con chung trưởng thành và tự lập được.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong việc giải quyết vụ án là đúng pháp luật. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 24, 26, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Giải quyết cho chị Nguyễn Bảo H và anh Nguyễn Hoàng H ly hôn.

Về con chung và cấp dưỡng: Giao cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 01 con chung Nguyễn Quốc A, sinh ngày 10 tháng 6 năm 2017. Anh H cấp dưỡng nuôi con chung mức 3.000.000đ/tháng cho đến khi con chung thành niên và tự lập được.

Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, anh H chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm đối với việc cấp dưỡng.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

XÉT THẤY

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Chị Nguyễn Bảo H yêu cầu Tòa giải quyết việc ly hôn, nuôi con chung giữa chị và anh Nguyễn Hoàng H. Đây là quan hệ pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh H là bị đơn trong vụ kiện có nơi cư trú và sinh sống tại phường S, thị xã A, tỉnh G. Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh G có thẩm quyền giải quyết vụ án. Anh H là bị đơn trong vụ kiện, đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Tòa án xét xử vắng mặt anh Hải tại phiên tòa theo điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh H là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Hai người tìm hiểu và tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn vào ngày 04/5/2017 tại Ủy ban nhân dân phường S, thị xã A, tỉnh G. Theo chị H khai thì sau kết hôn vợ chồng chung sống không hạnh phúc vì không cùng quan điểm sống. Anh H thường xuyên nhậu nhẹt, cờ bạc, không quan tâm đến cuộc sống gia đình nên vợ chồng đã ly thân từ tháng 12/2020 cho đến nay. Anh H thì cho rằng vợ chồng không hòa hợp, thường xuyên cãi vã lẫn nhau nên chị H bỏ về nhà mẹ đẻ. Như vậy, hai bên đều thừa nhận vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến ly thân từ tháng 12/2020 cho đến nay. Hiện tại cả hai đều muốn ly hôn, không mong muốn hàn gắn. Vì vậy, Tòa án đã tổ chức hai phiên hòa giải nhưng anh H đều vắng mặt không lý do.

Xét thấy hai bên đã sống ly thân từ tháng 12/2020 đến nay, không còn quan tâm tới nhau. Hiện tại mâu thuẫn giữa vợ chồng đã ở mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cần xem xét chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Hương, xử cho chị H và anh Hly hôn.

[3] Về việc nuôi con chung và cấp dưỡng:

Xét nguyện vọng nuôi con của chị H là hợp lý, xuất phát từ quyền lợi mọi mặt của con chung. Anh H cũng chấp nhận để chị H nuôi con và đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Vì vậy, căn cứ các Điều 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, giao cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Quốc A, sinh ngày 10/6/2017. Anh H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung hằng tháng với mức 3.000.000đ/tháng. Thời hạn nuôi con và cấp dưỡng nuôi con của hai bên tính từ ngày hôm nay (01/9/2021) đến khi con chung thành niên và tự lập hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

[4] Về tài sản và công nợ chung:

Các đương sự không yêu cầu giải quyết chia tài sản chung. Hiện tại không có công nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm với yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật, anh H chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 35; 39, 227, 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 24, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/6/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Bảo Hương.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Bảo H và anh Nguyễn Hoàng H ly hôn.

2. Về việc nuôi con chung và cấp dưỡng: Giao cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Quốc A, sinh ngày 10/6/2017. Anh H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung hằng tháng với mức 3.000.000đ/tháng. (Ba triệu đồng) Thời gian trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của chị H và cấp dưỡng nuôi con của anh H tính từ ngày hôm nay (01/9/2021) cho đến khi con chung thành niên hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Anh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con sau khi ly hôn, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết có thể thay đối mức cấp dưỡng nuôi con và thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án về khoản tiền cấp dưỡng nuôi con chung, nếu người phải thi hành án không tự giác thi hành thì phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự

3. Về án phí: Chị H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí Toà án số 0009197 ngày 14/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai (Đã nộp đủ) Anh H nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

4. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 01/9/2021, chị Hương có quyền kháng cáo bản án đến Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Anh H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn nói trên kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hánh án dân sự, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

435
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 08/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ayun Pa - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:01/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về