Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con số 06/2021/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-PT NGÀY 07/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG, CẤP DƯỠNG NUÔI CON

Trong các ngày 29 tháng 12 năm 2020 và 07 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 107/2020/TLPT-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 651/2020/HNGĐ-ST ngày 14 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 5456/2020/QĐPT- HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Yến N, sinh năm 1990. Địa chỉ: B2/29A, xã V, huyện B, TP. Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:

- Luật sư Nguyễn Tường Vi L- Công ty Luật TNHH Hai thành viên C, thuộc Đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh.

- Luật sư Lê Quốc Sơn - Công ty Luật TNHH Hai thành viên C, thuộc Đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Phan Phạm K, sinh năm 1992. Địa chỉ: B2/29A , xã V, huyện B, TP. Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Nguyễn Văn T - Công ty Luật TNHH Một thành viên L, thuộc Đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Bà Lê Thị Yến N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn - bà Lê Thị Yến N trình bày: Bà và ông Phan Phạm K sống chung và đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 01 quyển số 01/2012 do Ủy ban nhân dân xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 21/3/2012. Từ năm 2014 bà và ông K bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, không thể hàn gắn được do ông K lăng nhăng bên ngoài hay thường xuyên đánh bà. Năm 2019, do không còn chịu nổi nên bà đã đưa con chung về mẹ ruột ở huyện L, tỉnh Vĩnh Long sinh sống.

Về việc nuôi con: Có 01 con chung tên Phan Ngọc T, sinh ngày 30/9/2014. Hiện nay con đang sống với bà và bà ngoại tại huyện V, tỉnh Vĩnh Long và trẻ Thảo vẫn đi học bình thường. Khi ly hôn bà xin được nuôi con vì bà có công việc ổn định và có người phụ chăm sóc, yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn - ông Phan Phạm K trình bày: Ông và bà Lê Thị Yến N sống chung và đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 01 quyển số 01/2012 do Ủy ban nhân dân xã V A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 21/3/2012. Quá trình chung sống và kết hôn như lời trình bày của N. Do cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, trước yêu cầu ly hôn của bà N, ông cũng đồng ý với bà N.

Về việc nuôi con: Có 01 con chung tên Phan Ngọc T, sinh ngày 30/9/2014. Trong quá trình chung sống, con sống chung với ông K và học hành tại xã V A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, từ cuối năm 2019 đến nay bà N đã bắt con đem về cho bà ngoại ở tỉnh Vĩnh Long nuôi dưỡng, bà N không chăm sóc con. Bà N giao con lại cho bà ngoại nuôi, bà N thì làm việc ở Thành phố Hồ Chí Minh, không quan tâm chăm sóc con. Hiện nay ông có công việc ổn định nên khi ly hôn, ông xin được nuôi con, không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 651/2020/HNGĐ-ST ngày 14/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện B, đã quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con của bà Lê Thị Yến N.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Yến N và ông Phan Phạm K thuận tình ly hôn.

Giấy chứng nhận kết hôn số 62 quyển số 01/2012 do Ủy ban nhân dân xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 21/3/2012 cho bà Lê Thị Yến N và ông Phan Phạm K không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Trẻ Phan Ngọc T, sinh ngày 30/9/2014, giới tính nữ, hiện trẻ đang sống với bà Lê Thị Yến N.

Buộc bà Lê Thị Yến N có trách nhiệm giao con chung tên Phan Ngọc T, sinh ngày 30/9/2014, giới tính nữ cho ông Phan Phạm K trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông Phan Phạm K không yêu cầu bà Lê Thị Yến N cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, trong trường hợp có yêu cầu được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Bà Lê Thị Yến N và ông Phan Phạm K xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Bà Lê Thị Yến N và ông Phan Phạm K xác nhận nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết…” Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo, thời hạn kháng cáo và thi hành án.

Ngày 14/8/2020, bà N kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, yêu cầu được trực tiếp nuôi con Phan Ngọc T, yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con, mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

* Bà Lê Thị Yến N trình bày: Bà giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.

* Ông Phan Phạm K trình bày: Ông không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của bà Nhi, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn - Luật sư Nguyễn Tường Vi Ltrình bày:

Từ khi vợ chồng bà Nhi, ông K sống ly thân cho đến nay trẻ Thảo đã cùng chung sống với mẹ tại Vĩnh Long, đang học tại trường Tiểu học Hiếu Phụng A, môi trường giáo dục tại Vĩnh Long cũng tốt, việc nuôi dưỡng con gái cũng cần người mẹ chăm sóc nhiều hơn. Từ khi con về Vĩnh Long đến nay, ông K không đến thăm con, không gọi điện thoại, không tổ chức sinh nhật cho con. Trước đây ông K cũng thường xuyên đánh đập bà Nhi, nhắn tin chửi bới gây ảnh hưởng xấu đến trẻ. Sau khi bản án sơ thẩm tuyên xong ông K có nhờ Công an đến bắt con nhưng không được, nếu giao con cho ông K nuôi sẽ chia cắt tình mẹ con. Từ những phân tích trên, căn cứ Luật hôn nhân và gia đình và Luật trẻ em thì đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giao con cho bà N trực tiếp nuôi.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn - Luật sư Lê Quốc S trình bày:

Tại phiên tòa sơ thẩm có mời mẹ ông K hỏi là vi phạm thủ tục tố tụng. Làm cha mẹ thì không nên tranh giành việc nuôi con mà nên nghĩ cách nuôi con như thế nào cho tốt. Nếu giao con cho cha nuôi thì việc đến bắt một đứa trẻ 6-7 tuổi giao lại sẽ không hay. Trẻ T là con gái thì cần bàn tay chăm sóc của người mẹ hơn vì cha sẽ không nắm bắt được hết tâm lý của con gái.

* Bà Lê Thị Yến N trình bày: Cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nên bà chấp nhận ly hôn. Trẻ Thảo rất sợ ông K nên khi ông K xuống đón con thì con khóc nên gia đình bà không cho ông K gặp chứ không hề cấm cản. Từ khi ly thân đến nay ông K chỉ xuống thăm con vài lần, còn việc yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con là do bà muốn ông K có trách nhiệm với con chứ bà đủ khả năng nuôi con.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn - Luật sư Nguyễn Văn T trình bày:

Cha mẹ ly hôn là điều không ai mong muốn, nguyên nhân mâu thuẫn giữa hai vợ chồng là do bà N thường xuyên đi làm về khuya, không chăm sóc con nên ông K có la mắng. Từ khi ly thân bà N đưa con về Vĩnh Long sinh sống nhưng không trực tiếp chăm sóc con mà giao con cho bà ngoại, cha dượng và em trai của bà N chăm sóc, còn bà N đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh, do đó ông K không yên tâm khi trẻ Thảo ở dưới Vĩnh Long. Đồng thời trong thời gian đó ông K thường xuống thăm con nhưng gia đình bà N không cho gặp con. Ngược lại, trước đây trẻ Thảo đang học tại Trường mầm non Việt Mỹ, kết quả học tập và phát triển tốt, trẻ sinh sống ổn định cùng với ông K và ông bà nội tại nhà ở Bình Chánh. Trẻ đang đi học thì bà N bắt đưa về Vĩnh Long không hỏi ý kiến ông K và không có việc trẻ sợ cha như bà N trình bày. Do đó, đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bà Nhi, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

* Ông Phan Phạm K trình bày:

Bà N cho rằng ông không xuống thăm con là không đúng vì từ khi bà N đưa con về Vĩnh Long ông vẫn xuống thăm con, lần đầu còn cho gặp các lần sau không cho ông gặp con, ông phải đến trường học xin phép được gặp con. Vì vậy, ông yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con và tạo mọi điều kiện cho bà N gặp con.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về thời hạn kháng cáo: Bà N kháng cáo đúng thời hạn luật định.

- Về nội dung kháng cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm bà N đã nộp các tài liệu, chứng cứ là Hợp đồng lao động ký ngày 05/7/2020, giấy khen, đơn xin nhập học trái tuyến…nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã không xem xét các tài liệu, chứng cứ trên do cung cấp không đúng thời hạn. Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ nêu trên nhận thấy bà N đang làm việc tại Công ty may tại Vĩng Long, mức lương 7.000.000 đồng/tháng kèm phụ cấp để có thời gian chăm sóc con, trẻ T cũng đã đi học đúng hạn. Phía ông K không đến thăm con, tình cảm cha con không than thiết. Xét thấy, bà N đủ điều kiện nuôi con, không cần thiết thay đổi môi trường sống của trẻ Thảo, nên kháng cáo của bà N là có cơ sở. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo của bà N, sửa bản án sơ thẩm, giao trẻ T cho bà N trực tiếp nuôi, buộc ông K cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 3.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thời hạn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà Lê Thị Yến N làm trong thời hạn luật định.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 62, quyển số 01/2012 do Ủy ban nhân dân xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 21/3/2012 thì quan hệ hôn nhân giữa bà Lê Thị Yến N và ông Phan Phạm K là hôn nhân hợp pháp. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà N và ông K đều thống nhất ly hôn nên Tòa án cấp sơ thẩm công nhận sự thuận tình ly hôn giữa bà N và ông K là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về việc nuôi con: Căn cứ Trích lục khai sinh số 585/TLKS-BS do Ủy ban nhân dân xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/6/2019, thì trẻ Phan Ngọc T, sinh ngày 30/9/2014 là con của bà N và ông K.

Xét thấy, từ khi trẻ T được sinh ra cho đến khi bà N đưa về Vĩnh Long, thì trẻ T sống chung với gia đình ông Khanh, trẻ đang đi học tại trường Mầm non M, kết quả học tập, phát triển tốt và sinh sống ổn định tại huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi vợ chồng bà Nhi, ông K xảy ra mâu thuẫn thì bà N đưa con về nhà ngoại tại Vĩnh Long từ khoảng tháng 5/2019 đến ngày thụ lý đơn ly hôn vào tháng 6/2020, trong thời gian đó bà N không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con mà giao cho ông bà ngoại nuôi dưỡng, còn bà N vẫn đi làm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của trẻ, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định giao con cho ông K trực tiếp nuôi là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét nguyện vọng được trực tiếp nuôi con của bà N và ông K đều xuất phát từ tình thương và trách nhiệm đối với con. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự cung cấp thể hiện bà N và ông K đều có đủ điều kiện nuôi con như: chỗ ở, thu nhập ổn định, thời gian dành cho con… Tại phiên tòa phúc thẩm, bà N kháng cáo nhưng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh nào cho rằng ông K nuôi con không tốt hoặc không đủ điều kiện để nuôi con. Ngoài ra theo lời khai thừa nhận tại phiên tòa phúc thẩm thì bà N cho rằng do trẻ sợ cha nên khi ông K xuống thăm con thì gia đình bà không cho ông K gặp con. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bà N và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên bản án sơ thẩm, giao trẻ Thảo cho ông K trực tiếp nuôi và ghi nhận sự tự nguyện của ông K về việc không yêu cầu bà N phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Hai bên khai không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về án phí phúc thẩm: Do Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm, nên bà N phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự.

1. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 651/2020/HNGĐ-ST ngày 14/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện B.

Chấp nhận một phần yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con của bà Lê Thị Yến N.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Yến N và ông Phan Phạm K thuận tình ly hôn.

Giấy chứng nhận kết hôn số 62 quyển số 01/2012 do Ủy ban nhân dân xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 21/3/2012 cho bà Lê Thị Yến N và ông Phan Phạm K không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Trẻ Phan Ngọc T, sinh ngày 30/9/2014, giới tính nữ, hiện trẻ đang sống với bà Lê Thị Yến N.

Buộc bà Lê Thị Yến N có trách nhiệm giao con chung tên Phan Ngọc T, sinh ngày 30/9/2014, giới tính nữ cho ông Phan Phạm K trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông Phan Phạm K không yêu cầu bà Lê Thị Yến N cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, trong trường hợp có yêu cầu được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Bà Lê Thị Yến N và ông Phan Phạm K xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Bà Lê Thị Yến N và ông Phan Phạm K xác nhận nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị Yến N phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2019/0079444 ngày 10/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Lê Thị Yến N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lê Thị Yến N phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2019/0079989 ngày 21/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Lê Thị Yến N đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con số 06/2021/HNGĐ-PT

Số hiệu:06/2021/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về