Bản án về tranh chấp ly hôn chị H, anh H1 số 99/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 99/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN CHỊ H, ANH H1

Ngày 30 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 229/2021/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 11 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08/12/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 65/2021/QĐST-HNGĐ ngày 24/12/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Thị H, sinh năm 1984;Đăng ký HKTT: Thôn Đ, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình;Địa chỉ hiện ở: Thôn Ng, xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Anh Bùi Xuân H1, sinh năm 1983;Địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình

(Chị H có mặt, anh H1 vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình nguyên đơn chị Phan Thị H có yêu cầu khởi kiện và trình bày tại phiên tòa như sau:

Về hôn nhân: Chị và anh Bùi Xuân H1 có tự do tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 24/10/2008 tại UBND xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh H1 ở Thôn Đ, xã Q, huyện Q. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng anh chị bất đồng quan điểm sống ngoài ra tính tình vợ chồng không hòa hợp. Mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng vào tháng 10/2009 chị đã bỏ về bố mẹ đẻ ở Thôn Ng, xã Đ, huyện H sinh sống, vợ chồng cũng ly thân từ đó cho tới nay không ai quan tâm hỏi han gì đến nhau. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Xuân H1.

Về con chung: Chị H xác định vợ chồng không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, hiện chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị H trình bày vợ chồng không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Bị đơn anh Bùi Xuân H1 vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

- Tại biên bản xác minh với ông Bùi Xuân H2 (là bố đẻ anh H1), địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình, ông H2 trình bày: Về điều kiện hoàn cảnh kết hôn giữa chị Phan Thị H, anh Bùi Xuân H1 như chị H trình bày là đúng. Quá trình chung sống giữa vợ chồng ông thấy vợ chồng có nhiều mâu thuẫn với nhau, nguyên nhân do chị H chơi bời không chịu khó làm ăn. Khoảng tháng 10/2009 chị H đã tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã Đ, huyện H sinh sống, trong thời gian chị H bỏ về anh chị không ai quan tâm hỏi han hay liên lạc gì với nhau. Nay chị H có đơn xin ly hôn anh H1, ông đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng được ly hôn do chị H và anh H1 đã ly thân từ nhiều năm nay; Về con chung: Vợ chồng chị H, anh H1 không có con chung; Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có.

Ông H2 cũng trình bày thêm anh Bùi Xuân H1 vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn Đ, xã Q, huyện Q. Hiện nay anh H1 đi làm ở trong Miền Nam, địa chỉ cụ thể như thế nào ông không nắm rõ, anh H1 vẫn liên lạc về gia đình và khi gia đình có công việc anh vẫn trở về. Ông đã nhận các văn bản tố tụng mà Tòa án gửi cho anh H1 và đã thông báo đầy đủ cho anh H1 biết việc chị H xin ly hôn anh. Thông qua gia đình anh H1 cũng trình bày do hiện đang đi làm ăn xa nhà và do dịch bệnh nên anh không về Tòa án để giải quyết việc ly hôn với chị H được. Nay chị H có đơn xin ly hôn anh cũng nhất trí ly hôn với chị Phan Thị H; Về con chung: Vợ chồng không có con chung; Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố Tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không có mặt tại phiên tòa nên không phát biểu về việc chấp hành pháp luật của bị đơn tại phiên tòa. Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình giải quyết theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn giữa chị Phan Thị H và anh Bùi Xuân H1 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn anh Bùi Xuân H1 có địa chỉ cư trú tại xã Quỳnh Ngọc, huyện Quỳnh Phụ nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn hiện không có mặt tại địa phương nhưng vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, không cung cấp cho nguyên đơn biết địa chỉ hiện nay ở đâu là thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân và địa chỉ của bị đơn. Vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân của chị H, anh H1 được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được một khoảng thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Mâu thuẫn trở nên trầm trọng vào tháng 10/2009 chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã Đ, huyện H sinh sống, trong thời gian này vợ chồng không ai quan tâm hỏi han hay liên lạc gì với nhau, vợ chồng cũng ly thân với nhau từ nhiều năm nay. Như vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H, anh H1 đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho chị H được ly hôn anh H1 là phù hợp với Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị H, anh H1 không có con chung nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H trình bày vợ chồng không có nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm, các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Phan Thị H ly hôn anh Bùi Xuân H1.

2. Về con chung: Không có.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra để giải quyết.

4. Về án phí: Chị Phan Thị H phải nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai số 0004533 ngày 15/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Phan Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 30 tháng 12 năm 2021). Anh Bùi Xuân H1 có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn chị H, anh H1 số 99/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:99/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:30/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về