Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 68/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 68/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 31/8/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 185/2021/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2021 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2021/QĐXXST-DS ngày 30/7/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 29/2021/QĐST-DS ngày 16/8/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1989 (Vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt);

Nơi cư trú: Thôn C, xã Q, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1983 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Thôn V, xã H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Q trình bày: Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn H ngày 15/01/2008, trước khi cưới có được tìm hiểu, tự nguyện thỏa thuận, đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến cuối năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống và trong công việc làm ăn hàng ngày vợ chồng thường bất đồng quan điểm dẫn đến cãi nhau, không bảo được nhau để cùng làm ăn phát triển kinh tế, xây dựng hạnh phúc gia đình. Vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ vợ chồng từ tháng 10/2020. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị xin được ly hôn anh H.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Nguyễn Thị Như N, sinh ngày 11/3/2009 và Nguyễn Ngọc N1, sinh ngày 01/10/2013, hiện các con đang ở cùng anh H và bà nội, các con khỏe mạnh và phát triển bình thường. Nay ly hôn chị xin nuôi cả hai con, không đề nghị tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản gì đáng giá, nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết. Chị xin chịu cả tiền án phí dân sự sơ thẩm.

* Bị đơn anh Nguyễn Văn H, mặc dù đã được Toà án thông báo thụ lý, giao và niêm yết, các thủ tục tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật, nhưng anh H vẫn không phối kết hợp để làm việc.

Tại phiên toà hôm nay chị Q vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt, anh H vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án thông báo phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai.

Phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa: Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân dân, các đương sự trong suốt quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay chị Q vắng mặt có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt, anh H vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án thông báo phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai. Do vậy đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của pháp luật. Đề nghị xét xử cho chị Q được ly hôn anh H; Về con chung: Xử giao chị Q nuôi hai con chung; Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản: Quá trình điều tra chị Q không đề nghị giải quyết, nên đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết; chị Q phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ngoài ra còn đề nghị tuyên quyền kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, phạm vi khởi kiện, thẩm quyền giải quyết và thủ tục tố tụng: Tại đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1989; Nơi cư trú: Thôn C, xã Q, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1983; Nơi cư trú: Thôn V, xã H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Nội dung: Chị Q xin được ly hôn anh H, đề nghị Tòa án giải quyết về con chung, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản. Như vậy đây là quan hệ pháp luật tranh chấp hôn nhân và gia đình, đề nghị xin được ly hôn, đề nghị giải quyết về con chung, không đề nghị giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.

Thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay chị Q vắng mặt có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt, anh H vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án thông báo phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai. Nên HĐXX áp dụng Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự tiếp tục xét xử vụ án theo pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Q kết hôn với anh Nguyễn Văn H ngày 15/01/2008, trên cơ sở tự nguyện hợp pháp, đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến cuối năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống vợ chồng thường bất đồng quan điểm dẫn đến cãi nhau, không bảo được nhau để cùng xây dựng hạnh phúc gia đình. Vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ vợ chồng từ tháng 10/2020. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn chị Q thiết tha xin được ly hôn anh H, phía anh H mặc dù đã được Toà án thông báo thụ lý, giao và niêm yết, các thủ tục tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật, nhưng anh H vẫn không phối kết hợp để làm việc. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã diễn ra căng thẳng kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc hôn nhân không đạt được. Nên cần xử cho chị Q được ly hôn anh H để giải phóng cho cả hai bên; xét là phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận.

[2.2] Về nuôi con chung: Quá trình chung sống chị Q và anh H sinh được hai con chung là Nguyễn Thị Như N, sinh ngày 11/3/2009 và Nguyễn Ngọc N1, sinh ngày 01/10/2013, hiện các cháu đang ở cùng anh H và bà nội (là Nguyễn Thị H1, sinh năm 1962 trú tại thôn V, xã H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang), các cháu khỏe mạnh và phát triển bình thường. Nay ly hôn chị Q xin được nuôi cả hai con, không đề nghị tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con; tuy nhiên các cháu đều có nguyện vọng muốn ở với bố và bà nội. Phía anh H đã được Toà án thông báo thụ lý, giao và niêm yết, các thủ tục tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật, nhưng anh H vẫn không phối kết hợp để làm việc, vắng mặt tại phiên tòa, mặc dù đã được Tòa án thông báo phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai. HĐXX xét thấy các cháu đều có nguyện vọng muốn ở với bố và bà nội; tuy nhiên phía anh H đã được Toà án thông báo thụ lý, giao và niêm yết, các thủ tục tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật, nhưng anh H vẫn không phối kết hợp để làm việc, vắng mặt tại phiên tòa, mặc dù đã được Tòa án thông báo phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai; nên để bảo đảm quyền lợi mọi mặt của con trẻ, cần giao chị Q nuôi cả hai con, nếu sau này anh H có mặt đề nghị thay đổi việc nuôi con, Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ án khác. Về cấp dưỡng nuôi con, chị Q không đề nghị Tòa án giải quyết, nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết, xét là phù hợp Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về chia tài sản: Quá trình giải quyết vụ án chị Q không đề nghị Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa hôm nay chị Q vắng mặt có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt, anh H vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án thông báo phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai. Nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết. Nếu sau này có sảy ra tranh chấp về tài sản, Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

[2.4] Về án phí: Chị Q phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí chị Q đã nộp.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

* Áp dụng Điều 28; 35; 147; 238; 235; 264; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều 56; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 26; 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Q được ly hôn anh Nguyễn Văn H.

2/ Về con chung: Xử giao chị Nguyễn Thị Q nuôi hai con chung là Nguyễn Thị Như N, sinh ngày 11/3/2009 và Nguyễn Ngọc N1, sinh ngày 01/10/2013; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con; anh H được quyền thăm nom con sau khi đã ly hôn, không ai được cản trở anh H thực hiện quyền này.

3/ Về án phí: Chị Nguyễn Thị Q phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị Q đã nộp theo biên lai thu số 0012289 ngày 25/6/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

Các đương sự vắng mặt, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt, niêm yết bản án vắng mặt.

Án xử sơ thẩm công khai./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 68/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:68/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về