Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 21/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Trong các ngày 22 tháng 4 năm 2021, ngày 07 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 295/2020/TLST - HNGĐ ngày 12/11/2020 về việc Tranh chấp hôn nhân gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 8 tháng 3 năm 2021, quyết định hoãn phiên tòa số 09/2021/QĐST- HNGĐ ngày 31/3/2021, QĐ ngừng phiên tòa số; 06/QĐ-ST ngày 22/4/2021 và các thông báo thay đổi ngày mở phiên tòa số 08 ngày 17 /5/2021, số 11 ngày 01 tháng 7 năm 2021 giữa:

Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H sinh năm 1994 có đơn xin vắng mặt Địa chỉ: Xóm 1, Thôn Hòa T, xã Hòa T, huyện Quốc Oai, TP Hà Nội

Bị đơn:Anh Nguyễn Đức N sinh năm 1989 yêu cầu xin vắng mặt Địa chỉ: Tổ dân phố Tự, thị trấn Bích Đ, huyện Việt Y, tỉnh Bắc Giang Hiện đang bị tạm giữ, tạm giạm tại nhà tạm giữ Công an huyện Việt Yên

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Chị H vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong đơn khởi kiện đề ngày 21/10/2020 và được Tòa án nhận đơn ngày 08/11/2020, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án chị H trình bày: Chị và anh N kết hôn với nhau ngày 16 tháng 7 năm 2012 có tìm hiểu thỏa thuận có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bích Sơn ( nay là thị trấn Bích Động), huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn chị về gia đình anh làm dâu ngay và ở chung với gia đình được thời gian thì vợ chồng mâu thuẫn do anh N cờ bạc nghiện hút cho nên đã bị bắt từ ngày 06/3/2020. Tại bản án số; 70/2020/HS-ST Ngày:

06-7- 2020 của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên xử phạt 09 tháng tù đầu năm 2021 hết hạn tù đến tháng 6 năm 2021 anh N lại bị bắt tạm giữ tạm gian và bị khởi tố về tội Trộm cắp tài sản. Từ khi hết hạn tù anh N về nhà nhưng vợ chồng không quan tâm đến nhau, vợ chồng cắt đứt quan hệ tình cảm từ năm 2015 cho đến nay, không bên nào quan tâm đến bên nào. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn không có khả năng đoàn tụ và đề nghị được ly hôn.

Về con chung; vợ chồng có hai con chung Nguyễn Đức Bảo A sinh ngày 13 tháng 11 năm 2012, Nguyễn Nhật Minh T sinh 13 tháng 4 năm 2014 hiện đang ở với anh và gia đình; ly hôn lúc đầu chị đề nghị để chị nuôi Nguyễn Nhật Minh T anh nuôi Nguyễn Đức Bảo A và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Nay anh N bị bắt tạm giam cho nên chị đề nghị được nuôi cả hai con và không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con vì chị thu nhập khoảng 7.000.000đ đến 8.000.000đ một tháng đủ điều kiện nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ, ruộng canh tác, công sức và các vấn đề khác; Chị xác định vợ chồng không có tài sản gì không có công sức, không nợ ai và không yêu cầu giải quyết.

* Anh N vắng mặt tại phiên tòa bản tự khai anh trình bầy: Anh N và chị H kết hôn với nhau ngày 16 tháng 7 năm 2012 có tìm hiểu thỏa thuận có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bích Sơn, ( nay là thị trấn Bích Động), Sau khi kết hôn chị về ở chung với gia đình tình cảm vợ chồng lúc đầu bình thường sau đó hay cãi nhau do tính tình không hợp nhau vợ chồng sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Nay chị H xin ly hôn anh đồng ý.

Về con chung anh và chị H có hai con chung Nguyễn Đức Bảo Anh sinh ngày 13 tháng 11 năm 2012, Nguyễn Nhật Minh Thư sinh 13 tháng 4 năm 2014 hiện đang ở với anh; ly hôn anh đề nghị để chị nuôi Nguyễn Nhật Minh Thư anh nuôi Nguyễn Đức Bảo Anh và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Vợ chồng không có tài sản gì, không có công sức, không nợ ai và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật. Việc gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định.

Về ý kiến giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 51; 56; 57; 81; 82; 83 Luật hôn nhân gia đình. Điều 28; Điều 35; Khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/NQ – UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Xử: Về quan hệ vợ chồng: Chị Hoàng Thị H được ly hôn anh Nguyễn Đức N Về con chung: Giao chị Hoàng Thị H trực tiếp nuôi Nguyễn Đức Bảo Anh sinh ngày 13 tháng 11 năm 2012, Nguyễn Nhật Minh Thư sinh 13 tháng 4 năm 2014 và anh N không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh N được quyền đi lại thăm nom con không ai được cản trở, anh N thực hiện quyền này.

*Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng; Chị H và anh N kết hôn với nhau tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã, được xác nhận là hôn nhân hợp pháp. Chị H có đơn xin ly hôn anh N như vậy được xác định quan hệ tranh chấp là tranh chấp “ Hôn nhân và gia đình” theo quy đinh tại điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hơn nữa anh N ở thị trấn Bích Động huyện Việt Yên cho nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên là phù hợp với điểm b khoản 1 điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Xét chị H và anh N đều xin vắng mặt tại phiên họp tiếp cân công khai chứng cứ, hòa giải cũng như vắng mặt tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện phù hợp với pháp luật cho nên cần được chấp nhận vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh N, chị H là phù hợp với Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu về việc xin ly hôn của chị H thấy rằng qua các chứng cứ do các bên xuất trình lời khai người làm chứng được biết vợ chồng chị H, anh N kết hôn với nhau và đã có thời gian sống H phúc nhưng tình cảm nợ chồng không duy trì và phát triển được nên đã xẩy ra mâu thuẫn xuất phát từ việc chị cho rằng anh hay cờ bạc rượu chè, không quan tâm đến vợ con, anh cho rằng do tính tình vợ chồng không hợp nhau nên vợ chồng cắt đứt quan hệ tình cảm từ năm 2015 cho đến nay không bên nào quan tâm đến bên nào. Gia đình cũng đã hòa giải nhiều lần nhưng không được. Anh N cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn và đồng ý ly hôn. Chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh N đã phát triển trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần áp dụng điều 51,56 Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết cho chị H được ly hôn anh N là phù hợp, cho nên yêu cầu xin ly hôn của chị H cần được chấp nhận.

[3] Về con chung: Xét yêu cầu về nuôi con của hai bên thấy rằng vợ chồng chị H, anh N có hai con chung Nguyễn Đức Bảo A sinh ngày 13 tháng 11 năm 2012, Nguyễn Nhật Minh T sinh 13 tháng 4 năm 2014 hiện đang ở với anh các cháu vẫn phát triển bình thường khi anh N chưa bị bắt tạm giữ tạm giam thì chị đề nghị được nuôi Nguyễn Nhật Minh T anh nuôi Nguyễn Đức Bảo A và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nhưng hiện nay anh N bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/6/2021 và bị khởi tố về tội trộm cắp tài sản hiện đang bị tạm giam cho nên chị đề nghị được nuôi cả hại con và không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy yêu cầu được nuôi cả hai con của chị H là hoàn toàn tự nguyện hơn nữa anh N hiện nay đang bị khởi tố về tội Trộm cắp tài sản và bị bắt tạm giam đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Việt Yên cho nên anh N không có thu nhập và không có đủ điều kiện trông nom chăm sóc con. Chị H thu nhập bình quân khoảng 7.000.000đ/ tháng và đang ở với bố mẹ đẻ có đủ điều kiện nuôi con cho nên để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của đứa trẻ xét thấy cần giao Nguyễn Đức Bảo A sinh ngày 13 tháng 11 năm 2012, Nguyễn Nhật Minh T sinh 13 tháng 4 năm 2014 cho chị H nuôi và anh N không phải cấp dưỡng nuôi con cho đến khi có yêu cầu là phù hợp với điều 58,81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình cho nên yêu cầu của chị H cần được chấp nhận.

[4]Vê tài sản chung, tài sản riêng, công sức, công nợ cả hai bên đều xác định vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[5]Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, [6] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên tham gia phiên tòa phát biểu về quá trình tiến hành tố tụng, việc chấp hành pháp luật của các đương sự cũng như đề nghị áp dụng các điều luật, đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với pháp luật cần chấp nhận.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào các Điều 51, 56, điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân gia đình; khoản 1 Điều 28, điều 39, Điều 228, Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/ 2016/ UBTVQH14, ngày 30/ 12/ 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí;

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị H.

*Về hôn nhân: Chị Hoàng Thị H được ly hôn anh Nguyễn Đức N *Về con chung: Giao chị Hoàng Thị H nuôi Nguyễn Đức Bảo A sinh ngày 13 tháng 11 năm 2012, Nguyễn Nhật Minh T sinh 13 tháng 4 năm 2014 và không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào cho đến khi có yêu cầu. Chị H, anh N được quyền đi lại thăm nom con không ai được cản trở chị H, anh N thực hiện quyền này.

*Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/ 0001429 ngày 12 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Việt Yên. Xác nhận chị H đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

* Đương sự vắng mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 21/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về