Bản án về tội tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép số 233/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 233/2024/HS-PT NGÀY 20/03/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC CHO NGƯỜI KHÁC XUẤT CẢNH TRÁI PHÉP

Ngày 20/3/2024, tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, điểm cầu thành phần Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 89/2024/TLPT-HS ngày 23/01/2024 đối với bị cáo Bàn Chiều S và đồng phạm phạm tội: “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”. Do có kháng cáo của các bị cáo, đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 186/2023/HS-ST ngày 13/12/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Cao Bằng.

1. Bị cáo có kháng cáo:

1.1. Họ và tên: Bàn Chiều S; Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không có. S ngày 12/5/1990 tại Hưng Đ, Nguyên B, Cao B. Nơi cư trú: Nà R, Hưng Đ, Nguyên B, Cao B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Dao; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: Lớp 10/12 phổ thông. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông: Bàn Dân B, sinh năm 1965; con bà: Đặng Thị B, sinh năm 1969, cùng trồng trọt tại Nà R, Hưng Đ, Nguyên B, Cao B. Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ 01. Vợ: Bàn Thị D, sinh năm 1988, nghề nghiệp: Lao động tự do. Có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2013. Cùng cư trú tại Nà R, Hưng Đ, Nguyên B, Cao B. Tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/5/2023 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng. Có mặt.

1.2. Họ và tên: Phùng Lá S; Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không có. S ngày 07/12/1999 tại Huy G, Bảo L, Cao B. Nơi cư trú: Lũng V, Cần N, Hà Q, Cao B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Dao; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: Lớp 9/12 phổ thông. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông: Phùng Chàn V, sinh năm 1962; con bà: Đặng Mùi S, sinh năm 1963, cùng trồng trọt tại Lũng V, Cần N, Hà Q, Cao B. Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ 04. Vợ: Tẩn Mủi N, sinh năm 2003, nghề nghiệp: Trồng trọt. Có 02 con, con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2021. Cùng cư trú tại Lũng V, Cần N, Hà Q, Cao B. Tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/5/2023 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng. Có mặt.

1.3. Họ và tên: Chảo Vằng P; Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không có. S ngày 13/4/2002 tại Xuân T, Bảo L, Cao B. Nơi cư trú: Xà P, Xuân T, Bảo L, Cao B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Dao; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: Lớp 5/12 phổ thông. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông: Chảo Sềnh L, sinh năm 1967; con bà: Phủng Mùi P, sinh năm 1960, cùng trồng trọt tại Xà P, Xuân T, Bảo L, Cao B. Gia đình có 07 anh em, bị cáo là con thứ 05. Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 23/5/2023 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Cao B. Có mặt.

2. Người bào chữa cho các bị cáo:

2.1. Bào chữa cho các bị cáo S, S: Ông Nông Văn S, Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Cao Bằng. Có mặt.

2.2. Bào chữa cho bị cáo Ph: Bà Hoàng Thị Diệp H, Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Cao Bằng. Có mặt.

2.3. Bào chữa cho bị cáo S (gia đình mời): Luật sư Nguyễn Đình S, Trung tâm tư vấn pháp luật toàn cầu - Viện khoa học chính sách và pháp luật. Có mặt.

3. Ngoài ra trong vụ án còn có 03 (ba) bị cáo khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị; Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 22/5/2023, tổ công tác phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Cao Bằng phối hợp với Công an huyện Trùng Khánh, Công an xã Quang Hán, Đồn Biên phòng cửa khẩu Trà Lĩnh - Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng tiến hành tuần tra, kiểm soát ở khu vực biên giới thì phát hiện bắt quả tang Đặng Chòi P, sinh năm 1996, trú tại Pác Trà, Huy Giáp, Bảo Lạc, Cao Bằng điều khiển xe máy biển kiểm soát 11L1-125.xx chở theo Đặng Đình P2, sinh năm 2004, trú tại xóm Nặm Quang, xã Quảng Ngân và Vàng Thị N2, sinh năm 1998, trú tại thôn Bó Dướt, xã Thượng Sơn, cùng huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang; Phùng Chòi S2, sinh năm 2000, trú tại Ca Dằm, Hồng An, Bảo Lạc, Cao Bằng điều khiển xe máy biển kiểm soát 20H1- 197.xx chở theo Cà Văn Thoả, sinh năm 2004 và Cà Văn D2, sinh năm 1993, cùng trú tại bản Nà Sáy, xã Nà Sáy, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên; Đặng Tòn S3, sinh năm 2001, trú tại Pác Trà, Huy Giáp, Bảo Lạc, Cao Bằng điều khiển xe máy biển kiểm soát 11L1- 121.XX chở theo Triệu Văn S4, sinh năm 1994, trú tại xóm Khuổi Mạ và Bàn Càn C7, sinh năm 1986 trú tại xóm Nà Khâu, cùng xã Đường Hồng, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang chuẩn bị đi vào khu vực biên giới để xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc. Tổ công tác đã đưa người và phương tiện về trụ sở để tiếp tục làm rõ.

Mở rộng điều tra vụ án đã xác định được như sau:

Đầu năm 2023, Bàn Chiều S có kết bạn qua Wechat với một người đàn ông lạ sử dụng tài khoản là “Ok”. Ngày 22/5/2023, người này nhắn tin cho S qua Wechat đặt vấn đề thuê đón và chở 12 người Việt Nam từ khu vực xã Quang Hán đi vào khu vực biên giới để xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc qua khu vực mốc 731 cũng thuộc xã Quang Hán, huyện Trùng Khánh, hứa trả tiền công là 2.000.000 đồng/người xuất cảnh, S đồng ý. Sau đó, S nói lại việc cho Phùng LS biết và rủ S9 cùng làm, S9 đồng ý. S với S9 thống nhất sẽ gọi thêm Chảo Vằng P để phụ trách việc đi đón, chở người, còn S với S9 sẽ đi trông đường, cảnh giới lực lượng chức năng. Tiền công sẽ chia cho P 1.000.000 đồng/người xuất cảnh để P chia lại cho những người cùng đi đón và chở người vào khu vực biên giới, còn S và S9 mỗi người sẽ hưởng 500.000 đồng/người xuất cảnh. Sau khi bàn bạc xong, khoảng 14h30’ ngày 22/5/2023, S9 sử dụng tài khoản Wechat “tha ho” gọi vào tài khoản “Vui mê đồ” của Chảo Vằng P để bảo P đi đón 12 người đưa vào khu vực mốc 731 để xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc, hứa trả tiền công là 1.000.000 đồng/người xuất cảnh. S9 cũng nói với P nên gọi thêm người khác vì số lượng người đi đông, nếu ai đi làm cùng thì vào xã Quang Hán để làm luôn, P đồng ý. Do khi đó P đang ngồi ở quán hát tại thị trấn Trà Lĩnh cùng với Đặng Chòi P và Đặng Tòn S3 nên P rủ P với S3 cùng đi chở người để đưa sang Trung Quốc, chưa nói rõ tiền công thì P và S3 đều đồng ý thực hiện. P cũng cho biết là có 12 người nên cần thêm 02 người nữa để giúp chở, lúc này S3 rủ P với P về xóm trọ của S3 ở thị trấn Trà Lĩnh để tìm thêm người. Sau đó, P, P, S3 cùng về xóm trọ vào phòng của Phùng Chòi S2. Lúc này trong phòng S2 có vợ và em trai của S2 tên là Phùng Tòn S3 cùng ở đó. Tại đây, S3 hỏi S2 “có đang bận gì không, nếu không bận thì cùng đi làm”, S2 hỏi lại “đi làm việc gì”, S2 trả lời “cứ đi, có việc làm”, sau khi suy nghĩ thì S2 đồng ý, Phùng Chòi S3 thấy anh trai đi làm nên cũng đi cùng.

Sau khi rủ được S2 thì Chảo Vằng P, Đặng Chòi P, Đặng Tòn S3, Phùng Chòi S2 mỗi người điều khiển một xe máy đi về hướng chợ Trà Lĩnh, để vào xã Quang Hán theo hướng dẫn của P, khi được nửa đường, Phùng Tòn S3 hỏi lại là “đi làm việc gì” thì không được P, P, S3 trả lời nên Phùng Tòn S3 quay xe bỏ về không đi nữa, còn S2 vẫn tiếp tục đi theo P, P và Đặng Tòn S3. Khi đến một địa điểm thuộc xã Quang Hán, P dừng xe lại và nói cho P và S3 tiền công là 200.000 đồng/người thì S2 cũng có nghe thấy và biết tiền công được 200.000 đồng. Cả nhóm dừng xe ở đó khoảng 30 phút thì có 01 xe ô tô màu trắng, loại 05 chỗ ngồi không rõ biển kiểm soát chở 06 người (gồm 05 nam, 01 nữ) đến. P chở 02 người đi trước dẫn đường, P chở 02 người đi theo sau, tiếp đến là S3 và S2 mỗi xe chở 01 người. Khi chở người đến một địa điểm thuộc xóm Vĩnh Khải, xã Quang Hán, Trùng Khánh có đường rẽ lên mốc 731 thì cả nhóm dừng xe lại, thả người xuống, P yêu cầu P, S3, S2 quay lại đón thêm 01 chuyến nữa, còn 06 người này P sẽ ở lại trông và dẫn họ lên mốc, lúc này S2 mới biết được là mình đã tham gia chở người để họ vượt biên trái phép sang Trung Quốc.

Theo yêu cầu của P thì P, S3, S2 tiếp tục quay lại vị trí ban đầu đón người. Khi cả nhóm đến đó thì đã thấy 01 xe ô tô màu trắng không rõ biển kiểm soát đợi sẵn. Sau đó có 06 người (gồm 05 nam, 01 nữ) có thông tin như trên xuống xe thì xe ô tô quay đầu đi về hướng thị trấn Trà Lĩnh. P, S3, S2 di chuyển xe máy lại gần để mỗi xe chở 02 người, khi đã xếp đồ và cho người lên xe, chuẩn bị di chuyển vào khu vực biên giới đường rẽ lên mốc 731 chỗ P đang đợi thì bị lực lượng chức năng phát hiện, ngăn chặn. Đối với 06 người đã đưa đến đường rẽ lên mốc 731, do P đợi lâu không thấy nhóm P, S3, S2 đến nên đã dẫn nhóm người này lên mốc 731 giao cho 01 người đàn ông Trung Quốc đến đón và được nhận tiền công là 1.200.000 đồng từ người Trung Quốc này.

Đối với Bàn Chiều S, khi đang trên đường di chuyển vào phía trong chỗ xe ô tô thả người trước đó để tiếp tục xem đường thì thấy có một nhóm đông người, có xe cảnh sát đang dừng ở đó nên S gọi bảo S9 đi ra xem (do S9 đang trông đường ở khu vực biên giới), khi S9 ra đến địa điểm S yêu cầu thì phát hiện nhóm P, S3, S2 đã bị bắt, S9 thông báo lại cho S để S báo lại cho người sử dụng tài khoản “Ok” biết rồi S9 điều khiển xe đi về nhà ở Cần Yên, Hà Quảng. Một lúc sau, P thông báo cho S biết là đã đưa 06 người sang Trung Quốc trót lọt, S tiếp tục thông báo lại cho người sử dụng tài khoản “Ok” biết và yêu cầu trả tiền công. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, người này gửi định vị vị trí qua Wechat cho S và hướng dẫn đến vị trí đó để nhận tiền công, khi đến địa điểm theo hướng dẫn, S thấy có một chiếc hộp màu trắng để ở bờ đường, bên trong có 16.000.000 đồng. Người sử dụng tài khoản “Ok” cho S biết tiền công là 12.000.000 đồng/06 người đi Trung Quốc trót lọt, còn 4.000.000 đồng là tiền bồi thường cho những người bị bắt và yêu cầu S xoá hết nội dung liên lạc. Đến ngày 25/5/2023, S, S9 đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 186/2023/HS-ST ngày 13/12/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Cao Bằng, đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Bàn Chiều S, Phùng LS, Chảo Vằng P phạm tội: “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”.

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 348; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Bàn Chiều S, Phùng LS, Chảo Vằng P.

Xử phạt bị cáo Bàn Chiều S 07 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26/5/2023.

Xử phạt bị cáo Phùng LS 07 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26/5/2023.

Xử phạt bị cáo Chảo Vằng P 07 năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 23/5/2023.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt của các bị cáo khác, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo pháp luật.

Ngày 19/12/2024 bị cáo Phùng LS, bị cáo Chảo Vằng P kháng cáo giảm hình phạt; Ngày 25/12/2023, bị cáo Bàn Chiều S kháng cáo giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo Phùng LS, Chảo Vằng P, Bàn Chiều S giữ nguyên kháng cáo và đề nghị giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất theo pháp luật.

Những người bào chữa cho các bị cáo: Đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo xuống mức thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của các bị cáo, kết luận: Bị cáo Bàn Chiều S, bị cáo Phùng LS, bị cáo Chảo Vằng P, bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt về tội “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép” theo điểm a khoản 3 Điều 348 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; xử phạt 03 (ba) bị cáo mức hình phạt là thỏa đáng. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ đặc biệt mới, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn luật định, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Phùng LS, bị cáo Chảo Vằng P, bị cáo Bàn Chiều S thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận bản án sơ thẩm quy kết là đúng pháp luật, không oan. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp lời khai của Đặng Chòi P, Đặng Tòn S3, Phùng Chòi S2; lời khai người làm chứng; phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với nhận xét và kết luận của Tòa án cấp sơ thẩm như sau: Ngày 22/5/2023, sau khi được người đàn ông sử dụng tài khoản Wechat là “Ok” đặt vấn đề thuê chở 12 người vào khu vực biên giới để xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc, hứa trả tiền công là 2.000.000 đồng/người xuất cảnh thì Bàn Chiều S, Phùng LS đã đồng ý. Để dễ dàng thực hiện, S và S9 đã thống nhất thuê Chảo Vằng P tham gia đón và chở người. Sau đó, P tiếp tục rủ Đặng Chòi P, Đặng Tòn S3 cùng thực hiện chở 12 người vào khu vực biên giới mốc 731, hứa trả tiền công là 200.000 đồng/người, S3 trực tiếp rủ Phùng Chòi S2 cùng tham gia nhưng không nói rõ công việc và mức tiền công cho S2 biết. Khi thực hiện xong chuyến đầu tiên, S2 đã biết mình tham gia chở người vào khu vực biên giới để họ vượt biên trái phép sang Trung Quốc, nhưng vẫn tiếp tục quay lại đón nhóm 06 người ở chuyến thứ hai. Do chưa thực hiện được trót lọt nên S9, P, S3, S2 đều chưa nhận được tiền công, còn S đã được hưởng lợi 16.000.000 đồng từ người đàn ông sử dụng tài khoản Wechat là “Ok”, P đã nhận được 1.200.000 đồng từ người đàn ông Trung Quốc đến đón người. Hành vi của các bị cáo Phùng LS, Chảo Vằng P, Bàn Chiều S đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”, vi phạm tình tiết định khung “Đối với 11 người trở lên” theo điểm a khoản 3 Điều 348 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xét xử các bị cáo theo tội danh, điểm, khoản, điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo Đặng Chòi P, bị cáo Đặng Tòn S3, bị cáo Phùng Chòi S2 đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và xử phạt là có căn cứ. Các bị cáo không kháng cáo, không bị kháng nghị, nên bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đối với các bị cáo.

[3]. Xét kháng cáo của các bị cáo Phùng LS, Chảo Vằng P, Bàn Chiều S: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực xuất cảnh, nhập cảnh, xâm phạm an ninh biên giới, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh các tội phạm khác. Với động cơ vụ lợi từ việc đón và đưa người đến biên giới, giúp họ xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc để nhận tiền công. Trong vụ án này, các bị cáo phạm tội đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo S và S9 là người khởi xướng, bàn bạc với nhau, trông đường, cảnh giới lực lượng chức năng, rủ các bị cáo khác nên giữ vai trò chính, bị cáo P thực hành tích cực phụ trách việc đi đón, chở người vào khu vực biên giới, nhận tiền công. Tổng số 12 người các bị cáo đưa xuất cảnh trái phép, trong đó 06 người đã sang Trung Quốc, đang tiếp tục đưa 06 người sang Trung Quốc thì bị bắt quả tang. Do vậy, cấp phúc thẩm đồng tình cần có mức hình phạt thỏa đáng, để cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm xem xét nhân thân các bị cáo chưa tiền án, tiền sự, thành khẩn nhận tội, người dân tộc thiểu số, hoàn cảnh gia đình khó khăn, S và S9 ra đầu thú, S nộp số tiền hưởng lợi,…áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt là có căn cứ. Trên cơ sở hành vi phạm tội, nhân thân, vai trò, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt: bị cáo Bàn Chiều S 07 năm 06 tháng tù, bị cáo Phùng LS 07 năm 06 tháng tù, bị cáo Chảo Vằng P 07 năm tù là thỏa đáng. Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo không được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Do vậy, không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt, cấp phúc thẩm bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4]. Quan điểm của Trợ giúp viên pháp lý và luật sư bào chữa cho các bị cáo là không có căn cứ, không được chấp nhận.

[5]. Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn cứ và lập luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở, được chấp nhận.

[6]. Án phí phúc thẩm: Các bị cáo Phùng LS, Chảo Vằng P, Bàn Chiều S là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn nên được miễn án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Không nhận kháng cáo của bị cáo Bàn Chiều S, bị cáo Phùng Lá S9, bị cáo Chảo Vằng P.

[2]. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 186/2023/HS-ST ngày 13/12/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Cao Bằng, cụ thể như sau:

[2.1]. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 348; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bàn Chiều S 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội: “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”. Thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày 26/5/2023.

[2.2]. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 348; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phùng LS 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội: “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”. Thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày ngày 26/5/2023.

[2.3]. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 348; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Chảo Vằng P 07 (bẩy) năm tù, về tội: “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”. Thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày 23/5/2023.

[3]. Án phí phúc thẩm: Bị cáo Phùng LS, bị cáo Chảo Vằng P, bị cáo Bàn Chiều S được miễn án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép số 233/2024/HS-PT

Số hiệu:233/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về