Bản án về tội tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép số 13/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 13/2024/HS-ST NGÀY 15/03/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC CHO NGƯỜI KHÁC XUẤT CẢNH TRÁI PHÉP

Trong các ngày 12 và 15 tháng 03 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 86/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2024/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2024, quyết định hoãn phiên tòa số 11/2024/HSST-QĐ ngày 01/02/2024 và thông báo dời ngày xét xử vụ án số 03/TB-TA ngày 16/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện L đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn V, sinh ngày 15/02/1989, tại Đồng Nai; Tên gọi khác: Cu Cưng; Nơi cư trú: Ấp 2, xã P, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp tài xế; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th và bà Trần Thị N; vợ Nguyễn Thị Thảo P, sinh năm 1989 (đã ly hôn). Bị cáo có 02 người con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2010; Tiền án: Ngày 16/01/2020 TAND huyện TP, tỉnh Đồng Nai xử phạt 20.000.000đ về tội đánh bạc (Bản án số 03/HSST); Tiền sự; không.

Bị tạm giữ từ ngày 08/12/2021 đến ngày 16/12/2021 tạm giam cho đến nay.

2. Nguyễn Thị Ph, sinh ngày 02/8/1983, tại Thanh Hóa; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: KP S3ối Chồn, phường Bảo V2, thành Phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp buôn bán; Trình độ học vấn: 4/12; Dân tộc: kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu Đ (chết) và bà Đinh Thị Đ; chồng Phạm Văn K (chết). Bị cáo có 01 người con, sinh năm 2005.

Tiền án: không; Tiền sự: không Bị bắt tạm giam từ ngày 26/12/2022 đến ngày 22/9/2023 thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh.

3. Nguyễn Hoàng V, sinh ngày 25/8/1983, tại Đồng Nai; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: tổ 5, ấp Ngọc Lâm 1, xã Phú Xuân, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp tài xế; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị Phi D; vợ Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1985. Bị cáo có 03 người con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2017.

Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị bắt tạm giam từ ngày 20/12//2021 cho đến nay.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng V.

Luật sư Võ Thanh K, Công ty luật TNHH Logic & cộng sự thuộc đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

4. Nguyễn Quốc T, sinh ngày 12/6/1976, tại Nam Định; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: Ấp Thọ Lâm, xã Phú Xuân, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp:Tài xế; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị T; vợ Phạm Thị Thúy N, sinh năm 1977. Bị cáo có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2014.

Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị tạm giam từ ngày 26/12/2021 cho đến nay.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc T:

Luật sư Nguyễn S L1, văn phòng luật sư GL –Đoàn luật sự thành phố Hồ Chí Minh ( có mặt).

5. Nguyễn Hữu Đ, sinh ngày 24/01/1994, tại Thanh Hóa; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: KP 2, phường Xuân Trung, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu Đ (chết) và bà Đinh Thị Đ; vợ Nguyễn Thị Thanh S, sinh năm 1989; Bị cáo có 02 người con, lớn sinh năm 2019, nhỏ sinh năm 2021;Tiền án: không; Tiền sự: không Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

6. Thị Đ, sinh ngày 01/01/1984, tại Bình Phước; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: Tổ 3, ấp 8C, xã H, huyện L, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp Làm rẫy; Trình độ học vấn: không biết chữ; Dân tộc: STiêng; giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Điểu Ơ (chết) và bà Thị D; Chồng Điểu Thắng. Bị cáo có 02 người con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2006.

Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị bắt tạm giam từ ngày 30/9/2022 đến ngày 10/3/2023 được thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh.

7. Phạm Thị Th, sinh ngày 26/12/2002, tại Bình Phước; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: tổ 3, ấp 8C, xã Lộc Hoà, huyện L, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp Làm rẫy; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Kim H, và bà Thị L; chồng Điểu V sinh năm 2002. Bị cáo có 01 người con, sinh năm 2020.

Tiền án: không ;Tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Tất cả các bị cáo có mặt tại phiên tòa.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Điểu V, sinh năm 1989 (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ 3, ấp 8C, xã H, huyện L, tỉnh Bình Phước - Phạm Ngọc H, sinh năm 1995 (vắng mặt) HKTT: Tổ 2, ấp 2, xã Núi Tượng, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

Nơi ở: Y18 Phạm Thị Nghĩa, khu phố 5, phường T, Tp Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

- Nguyễn Văn Th, sinh năm 1964 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 6, ấp 2, P, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

- Điểu Minh H, sinh ngày 02/8/2007 (có mặt) Địa chỉ: ấp S3ối Thôn, xã H, huyện L, tỉnh Bình Phước.

*Người làm chứng:

- Nguyễn Trọng H, sinh năm 1993 (vắng mặt) Địa chỉ: TT Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

-Trịnh Văn T, sinh năm 1979 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 4, xã Thới Bình, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ ngày 05/12/2021 nhận được tin báo của quần chúng nhân dân có một số đối tượng có hành vi tổ chức cho người nước ngoài xuất cảnh trái phép sang Camphuchia, Phòng An ninh đối ngoại Công an tỉnh Bình Phước phối hợp với Công an huyện L và Công an xã Lộc Tấn tiến hành tuần tra khu vực đường tránh quốc lộ 13 thuộc địa bàn ấp 6A, xã Lộc Tấn, huyện L, tỉnh Bình Phước phát hiện Nguyễn Hoàng V điều khiển xe ô tô biển số 60A-435.xx đang cho 04 người Trung Quốc xuống xe giao cho 04 người đi bằng 04 xe mô tô chờ sẵn để đưa đến khu vực biên giới Việt Nam- Camphuchia xuất cảnh trái phép.

Khi lực lượng yêu cầu kiểm tra, V1 điều khiển xe ô tô bỏ chạy khoảng 500 mét xe bị nổ vỏ, qua kiểm tra, lực lượng Công an đã đưa Nguyễn Hoàng V, Thị Đ và 04 người Trung Quốc gồm: Li Yong C, He Hong J, Yang J1 và Guo Xian W2 về trụ sở Công an xã Lộc Tấn làm việc. Tại Công an xã Lộc Tấn, V1 khai nhận được Nguyễn Văn V (tên gọi khác là Cu) thuê chở 04 người Trung Quốc từ Đồng Nai lên L để giao cho người khác đưa sang Camphu chia với tiền công 600.000đ. Thị Đ thừa nhận được Nguyễn Thị Thảo rủ đi chở người từ ấp 6A, xã Lộc Tấn, huyện L đến khu vực biên giới giao cho người khác đưa sang Camphuchia khi giao người đến điểm hẹn sẽ được trả tiền công 1.000.000đ. 04 người Trung Quốc khai nhận do có nhu cầu tìm kiếm việc làm bên Camphuchia và được người môi giới thông qua mạng xã hội Zalo tổ chức cho nhập cảnh trái phép vào Việt Nam và sau đó tiếp tục được đưa sang camphuchia để làm việc. Khi vừa xuống xe thì bị phát hiện vào ngày 05/12/2021.

Phòng An ninh đối ngoại Công an tỉnh Bình Phước đã chuyển hồ sơ vụ việc đến phòng PA09 Công an tỉnh Bình Phước để giải quyết theo thẩm quyến.

Quá trình điều tra Nguyễn Văn V khai nhận trong thời gian từ tháng 09/2021 đến 05/12/2021 Nguyễn Văn V có sử dụng xe tải biển số 60C-531.xx của Nguyễn Thi P1 và Nguyễn Hữu Đ hùn tiền mua lại của vợ chồng em gái P1 là Nguyễn Thị Phẩm và V1 Xuân Ninh, V2 đã trực tiếp và thuê V1 và T1 chở người nước ngoài từ tỉnh Đồng Nai đến huyện L để giao cho người khác đưa đi xuất cảnh trái phép sang Camphuchia nhiều lần: Cụ thể V2 trực tiếp chở người từ Đồng Nai đến L hơn 10 lần mỗi lần 02 người bằng xe ô tô tải biển số 60C-531.xx, Nguyễn Hoàng V trực tiếp chở 4 lần bằng xe tải biển số 60C-573.xx và lần thứ 5 chở bằng xe ô tô biển số 60A-435.xx của P1 mới mua vào ngày 05/12/2021 bị bắt quả tang, Nguyễn Quốc T trực tiếp chở 3 lần bằng xe tải biển số 60C-573.xx.

Quá trình điều tra, T1 khai: Do có mối quan hệ quen biết với Nguyễn Hoàng V và Nguyễn Văn V nên khoảng đầu tháng 11/2021 V2 có kể với T1 là V2 sử dụng xe tải biển số 60C-531.xx đăng ký “luồng xanh” chở người đi từ Đồng Nai đi Bình Phước, mỗi chuyến được trả tiền công 8.000.000đ. Do thấy T1 đang thất nghiệp vì bị ảnh hưởng dịch Covid 19 nên công ty nơi T1 làm không có xe chạy V2 gợi ý cho T1 mua xe để cùng V2 chở khách kiếm tiền. T1 đã bàn với V1 hùn tiền mua xe để chở khách cho V2 ( bút lục 810).

Ngày 16/11/2021, T1 và V1 hùn tiền mua xe ô tô tải biển số 60C-573.xx của anh Lưu Hoàng Chương giá 178.000.000đ nhưng để V1 đứng tên, ngay sau khi mua xe, V2 có gọi cho T1 nói với T1 đợi tí có khách đến và V2 kêu T1 chở khách đi L, Bình Phước. S3 khi nhận 02 người khách nước ngoài từ xe 07 chổ, T1 chở khách đi đến L khoảng 21 giờ cùng ngày T1 đến L và giao 02 người khách cho người đi xe mô tô đến đón. S3 đó V2 xin số tài khoản của T1 để chuyển cho T1 16.000.000đ.

Ngày 21/11/2021 V2 tiếp tục gọi T1 chở khách cho V2 một chuyến với 02 người khách nước ngoài và địa điểm giao như ngày 16/11/2021, qua ngày 22/11/2021 V2 chuyển cho T1 20.000.000đ thông qua tài khoản của Nguyễn Hữu Đ, ngày 26/11/2021 T1 chở cho V2 một chuyến 02 người nước ngoài lần này địa điểm giao người cách nơi giao người 2 lần trước khoảng 3km. Ngày 27/11/2021 V2 chuyển cho T1 26.000.000đ thông qua tài khoản của Điều.

Trước ngày 05/12/2021 V1 sử dụng xe tải biển số 60C-573.xx chở cho V2 04 chuyến đưa người nước ngoài từ Đồng Nai lên L vào các ngày 22,24,28,29 tháng 11/2021 và đến chuyến thứ 5 ngày 05/12/2021 V1 sử dụng xe ô tô biển số 60A-435.xx chở 04 người Trung Quốc từ Đồng Nai lên L thì bị bắt quả tang.Trong ngày 05/12 ngoài V1 ra còn có Thị Đ, Phạm Thị Th, Điểu Du và Điểu Minh H sinh ngày 02/8/2007 được 14 tuổi 04 tháng 03 ngày( tên thường gọi Điểu Vơ) cùng tham gia đi đón người Trung Quốc bằng xe mô tô sau đó sẽ đưa đến biên giới Việt Nam-Camphuchia giao cho người khác đưa qua camphuchia.

Đối với số tiền công, theo V2 trình bày: V2 có quan hệ tình cảm và sống chung như vợ chồng với Nguyễn Thị Ph, trước khi có dịch Covid 19 P1 và Điều có hùn tiền mua xe tải biển số 60C-531.xx mục đích là để mua hải sản từ Vũng Tàu về Đồng Nai bán, và khi có dịch Covid thì không mua bán hải sản được, ban đầu V2 có đăng ký xe tải 60C-531.xx được cấp phép “luồng xanh” để được chở hàng hóa thiết yếu nên xe của V2 được phép lưu thông trong lúc đang có dịch bệnh, V2 có sử dụng Zalo tên “Tài khoản bị khóa”. Thông báo nhận chở hàng và cho số điện thọai của V2. Trong thời gian tháng 9/2021 V2 thấy người có nich trên Zalo là “A” sau này đổi thành “Mộc Uyển Thanh Tỷ Tỷ” kết bạn với V2 và thông qua mạng xã hội Zalo “Mộc Uyển Thanh Tỷ Tỷ” đã thuê V2 đưa người từ Đồng Nai lên Bình Phước xuất cảnh trái phép qua camphuchia với tiền công mỗi chuyến 4.500.000đ. Cách thức giao nhận tiền do V2 không có tài khoản nên V2 đi đến các điểm giao dịch và xin số tài khoản sau đó cung cấp cho “Mộc Uyển Thanh Tỷ Tỷ” để chuyển tiền cho V2, để tiện cho việc thanh toán, giao dịch từ 05/10/2021 V2 có nhờ Nguyễn Thị Ph mở tài khoản Ngân hàng Agribank để V2 sử dụng thuận tiện cho các giao dịch, đồng thời V2 còn nhờ Nguyễn Hữu Đ là em trai của P1 nhận tiền từ các tài khoản khác đến và Điều sẽ tiếp tục chuyển tiền cho các tài khoản khác theo lệnh của V2.

Ban đầu, P1 và Điều không biết được mục đích của V2 sử dụng tài khoản của P1 và Điều để thực hiện các giao dịch liên quan đến hoạt động tổ chức cho người xuất nhập cảnh trái phép. Nhưng qua một thời gian thì P1 bị cơ quan điều tra Công an tỉnh Bình Thuận mời làm việc lý do tài khoản ngân hàng do P1 đăng ký có liên quan đến hoạt động tổ chức xuất nhập cảnh trái phép, thông qua P1, Điều cũng biết được hành vi phạm pháp luật của V2. Nhưng P1 vẫn để cho V2 thực hiện các giao dịch trên tài khoản của mình, đối với Điều vẫn giúp V2 nhận tiền và chuyển tiền đến các tài khoản khác theo lệnh của V2 thông qua tài khoản của Điều.

Trong thời gian từ ngày 05/10/2021 đến ngày 05/12/2021 tài khoản số 5906205334xxx của P1 đã được chuyển tiền vào tổng cộng 630.327.000đ. Số tiền chuyển khoản đi là 549.300.000 và rút tiền mặt 70.000.000đ. Trong đó xác định được tiền chuyển từ TK 5906205334xxx sang TK số 1527040700156xx do P1 mở Ngân hàng HDBANK là 97.400.000đ, cũng trong tài khoản này Nguyễn Quốc T chuyển vào 20.000.000đ vào ngày 30/11/2021, Lê Thanh H chuyển 20.000.000đ tính đến ngày 09/12/2021.Tổng cộng trong tài khoản này có số tiền 147.953.779đ.

Từ ngày 01/10/2021 đến ngày 05/12/2021 tài khoản số của Nguyễn Hữu Đ 1058708976xx Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam đã nhận tổng cộng 418.930.000đ từ nhiều tài khoản khác nhau chuyển đến và Điều cũng đã chuyển đi theo lệnh của V2 đến nhiều tài khoản khác số tiền tổng cộng 382.930.000đ và rút tiền mặt nhiều lần tổng cộng số tiền 36.000.000đ số tiền trên Điều được V2 cho phép sử dụng 30.000.000đ số tiền còn lại Điều đã đưa cho V2.

Tài khoản của Nguyễn Quốc T 050028462211 Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín số tiền từ tài khoản Nguyễn Hữu Đ chuyển vào 131.000.000đ.Theo giải thích của T1 số tiền trên V2 chuyển vào tài khoản của T1 để trả tiền công cho T1 và V1 chở người từ Đồng Nai lên L, T1 đã rút tiền mặt trả cho V1 20.000.000đ, số tiền còn lại T1 chuyển trả tiền mua xe của Điều và P1 55.000.000đ, tiền đặc cọc mua xe cho V2 30.000.000đ. Ngoài ra cũng trong thời gian này tài khoản của T1 cũng có các tài khoản khác chuyển tiền cho T1 từ một số các giao dịch khác của T1, cũng có lúc V2 nhờ T1 giữ giùm tiền trong tài khoản của T1 và cũng có lúc V2 lấy số tài khoản của T1 để người mua xe tải của V2 bán trả tiền cho V2 thông qua TK của T1. Khi nào V2 cần T1 sẽ rút tiền mặt đưa cho V2, do thời gian lâu và giao dịch nhiều lần T1 không thể nhớ rõ chi tiết.

Tại bản cáo trạng số: 42/CT-VKSBP-P1, ngày 19/10/2023của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố các bị cáo Nguyễn Văn V, Nguyễn Thị Ph, Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Quốc T, Nguyễn Hữu Đ về tội: “ Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép” theo quy định tại khoản 2 Điều 348 Bộ luật Hình sự; Thị Đ, Phạm Thị Th về tội: “ Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép” theo quy định tại khoản 1 Điều 348 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V, Nguyễn Thị Ph, Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Quốc T, Nguyễn Hữu Đ, Thị Đ, Phạm Thị Th phạm tội: “ Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép” Áp dụng điểm b,đ khoản 2 Điều 348, Điều 17, 38, 50, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58, Điều 3 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V từ 06 đến 07 năm tù.

Áp dung khoản 4 Điều 348 xử phạt bổ sung từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ đồng thời truy thu số tiền thu lợi bất chính đối với V2.

Áp dụng điểm b,đ khoản 2 Điều 348, Điều 3, 17, 38, 50, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58, Điều 3 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T từ 05 đến 06 năm tù. Hình phạt bổ sung không đề nghị áp dụng đối với T1. Truy thu số tiền thu lợi bất chính đối với T1.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 348, Điều 17, 38, 50, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58, Điều 3 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng V từ 05 đến 06 năm tù. Hình phạt bổ sung không đề nghị áp dụng đối với V1. Truy thu số tiền thu lợi bất chính đối với V1.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 348, Điều 3, 17, 50,54, điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51, 58, 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Nguyễn Thị Ph 03 năm tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 05 năm. Hình phạt bổ sung không đề nghị áp dụng đối với P1. Truy thu số tiền thu lợi bất chính đối với P1 70.000.000đ.

Xử phạt Nguyễn Hữu Đ 03 năm tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 05 năm. Hình phạt bổ sung không đề nghị áp dụng đối với Điều.Truy thu số tiền thu lợi bất chính đối với Điều 30.000.000đ.

Áp dụng khoản 1 Điều 348, Điều 3, 17, 50 điểm s khoản 1,2 Điều 51, 58,65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Nguyễn Thị Thảo từ 15 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo thờ gian thử thách 30 đến 36 tháng. Hình phạt bổ sung không đề nghị áp dụng đối với Thảo.

Xử phạt Thị Đ: từ 12 đến 15 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 24 đến 30 tháng. Hình phạt bổ sung không đề nghị áp dụng đối với Đưa.

Vật chứng vụ án: đề nghị tịch thu sung công Ngân sách nhà nước đối với: 01 (một) điện thoại cảm ứng hiệu oppo Reno 65G màu đen; 01 điện thoại Nokia 105 màu đen, loại phím bấm của Nguyễn Văn V; 01 (một) điện thoại cảm ứng hiệu Iphone 6S plus, màu bạc; 01 (một) điện thoại Nokia TA-1114, màu đen của Nguyễn Hoàng V; 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 93F1-209.xx của Thị Đ đứng tên chủ sở hữu; 01 (một) điện thoại hiệu Redmi đã qua sử dụng của Thị Đ; 01 (một) điện thoại hiệu Realme của Nguyễn Hữu Đ; 01 (một) điện thoại hiệu Oppo; 01 (một) điện thoại hiệu Nokia 105 của Nguyễn Quốc T.

Trả cho Nguyễn Thị Ph 01 (một) điện thoại hiệu Oppo. Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng V:

Luật sư Võ Thanh K trình bày phần bào chữa cho bị cáo V1 như sau:

Về tội danh thống nhất với cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố Nguyễn Hoàng V.

Theo Điều 348 Bộ luật hình sự tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép:

1/ Người nào vì vụ lợi mà tổ chức hoặc môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặ ở lại Việt Nam trái phép thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.V1 là tài xế do vậy mỗi chuyến xe đi từ Đồng Nai đến L, Bình Phước được trả công 5.000.000đ V1 đã nhận chở cho V2 04 chuyến và được trả tiền công 20.000.000đ số tiền trên là phù hợp với giá trên thị trường nên chưa thể gọi là tiền vụ lợi. Đề nghị hội đồng xem xét cho bị cáo V1.Trong vụ án này, bị cáo V2 cũng là người thực hành cùng với các bị các khác mục đích đưa người đến L từ đó có người khác đón để đưa sang Camphuchia trái phép.

Theo hướng dẫn tại công văn số 1577/VKSTC-V1 ngày 20/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn nghiệp vụ áp dụng các Điều 347,348,349 thì những người V1 đưa 04 người Trung Quốc từ Đồng Nai đến L vào ngày 05/12/2021 bị phát hiện và những người này cũng chưa xuất cảnh được sang Camphuchia đã bi bắt do vậy V1 phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt.

Đề nghị hội đồng xét xử xem xét cho V1 các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thông qua lời khai của V1 và sự hợp tác giúp cơ quan điều tra phát hiện tội phạm V2 và T1. Hoàn cảnh gia đình của V1 hiện có 02 con còn nhỏ. Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 15, Điều 57 xử phạt bị cáo mức án dưới 03 năm tù và cho hưởng án treo.

Bị cáo V1 thống nhất như ý kiến bào chữa cũa luật sư K không bổ sung gì thêm.

Luật sư Nguyễn S L1 trình bày phần bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc T như sau:

Về tội danh thống nhất với cáo trạng của Viện kiểm sát cũng như trình bày của luật sư đồng nghiệp. Bị cáo T1 không trực tiếp đưa người đến biên giới, kết luận điều tra chưa xác định được T1 đã đưa bao nhiêu người qua biên giới. Căn cứ theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo đề nghị xem xét bị cáo T1 phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt. Đối với tiền thu lợi bất chính mà Viện kiểm sát quy kết cho T1 thu lợi bất chính 146.000.000đ và truy tố T1 phạm tội theo điểm b,đ khoản 2 Điều 348 Bộ luật hình sự; Trước khi xét xử luật sư đã có bản kiến nghị gửi đến hội đồng xét xử, yêu cầu không đưa số tiền 49.000.000đ và 55.000.000đ vào khoản tiền thu lợi bất chính vì số tiền trên T1 không sử dụng và nguồn tiền chuyển vào không phải là tiền của V2 hay Điều chuyển cho T1 liên quan đến việc đưa người xuất cảnh trái phép. Đề nghị hội đồng xét xử xem xét lại số tiền thu lợi đối với T1 chỉ là 15.000.000đ nhưng phải trừ chi phí cho mỗi chuyến là 2.000.000đ.T1 đã tác động đến gia đình nộp số tiền 23.000.000đ theo như cáo trạng ngày 09/02/2023.

Về ý thức: T1 đã chủ quan khi nhận lời chở người cho V2, do không nhận thức được đầy đủ hành vi của mình, T1 đã gián tiếp phạm tội, cũng không trực tiếp liên hệ với “Mộc Uyển Thanh Tỷ tỷ” đón người do vậy vai trò đồng phạm là không đáng kể , vô tình giúp sức, tính chất mức độ nguy hiểm không cao. S3 khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, cha của bị cáo là người có công với cách mạng được nhà nước tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, bị cáo có nhân thân tốt phạm tội chưa gây ra hậu quả. Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng Điều 348 và ghi nhận tất cả các tình tiết giảm nhẹ của T1, áp dụng khoản 2 Điều 54,58,65 xử bị cáo hình phạt dưới 3 năm tù cho hưởng án treo.

Bị cáo T1 thống nhất như ý kiến bào chữa cũa luật sư L1 không bổ sung.

Bị cáo V2 Tranh luận: Bị cáo không đồng ý với cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước. Viện kiểm sát chưa chứng minh được bị cáo đã tổ chức đưa người nào thời gian nào số lượng bao nhiêu người xuất cảnh trái phép, số tiền nào của “Mộc Uyển Thanh Tỷ tỷ” chuyển cho bị cáo từ số tài khoản nào thời gian chuyển nhưng lại buộc bị cáo nộp lại số tiền thu lợi bất chính 396.227.000đ là không đúng.

Các bị cáo còn lại không có ai tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo đều có chung một nội dung là xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo Thị Đ không có ý kiến ở phần lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan Phòng An Ninh đối ngoại Công an tỉnh Bình Phước, Cơ quan An Ninh điều tra Công an tỉnh Bình Phước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên toà, bị cáo V2 chỉ thừa nhận ngày 05/12/2021 biết rõ mục đích đưa 04 người Trung Quốc được “Mộc Uyển Thanh Tỷ Tỷ” thuê chở đi từ Đồng Nai lên L là để họ tiếp tục sang Camphuchia. Những lần trước đó bị cáo không biết họ sẽ có nguời khác đón sang Camphuchia. Nhưng cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo với tình tiết định khung phạm tội 02 lần trở lên và thu lợi bất chính theo cáo trạng lần thứ nhất số tiền 727.311.000đ và cáo trạng truy tố lần thứ hai sau khi tòa trả hồ sơ điều tra bổ sung là 396.227.000đ là không đúng. Số tiền bị cáo nhận chở người từ Đồng Nai đến Chơn Thành 01 chuyến và đi L, Bình Phước khoảng 7 chuyến chỉ thu được tiền công khoảng 50.000.000đ Bị cáo V1 thừa nhận ngày 05/12/2021 được V2 thuê chở người lên L để xuất cảnh trái phép sang Camphuchia và được trả tiền công 600.000đ nhưng đã bị phát hiện nên chưa lấy tiền công. Trước đó V1 có chở người nước ngoài cho V2 từ Đồng Nai lên L 04 lần, khi đến L, V1 đi theo sự chỉ dẫn của V2 và có người đi xe mô tô đến nhận người do V1 giao. Tương tự T1 cũng có 03 lần chở người cho V2 bằng xe tải hùn mua với V1 từ Đồng Nai lên L. Nguyễn Thị Thảo thừa nhận trước đó được một người lạ mặt (không rõ nhân thân) đặt vấn đề chở người từ Lộc Tấn đến khu vực biên giới giữa Việt Nam và Camphuchia giao cho người khác đón xuất cảnh trái phép sang Camphuchia sẽ được trả tiền công 1.000.000đ/người. Thảo đồng ý và lấy số điện thoại để liên lạc.Tối ngày 05/12/2021 Thảo được người lạ mặt gọi điện thoại thông báo đi chở người và Thảo có gọi Thị Đ, Điểu Du và Nguyễn Minh Hải đi cùng và sẽ được trả công mỗi người 1.000.000đ. Khi đến điểm hẹn nhận người, thấy Công an nên Thảo, Điểu Du và Điểu Minh H đã bỏ chạy và cũng chưa ai nhận được tiền công.

[3]Về ý thức chủ quan: Bị cáo V2, V1, T1 , Nguyễn Thị Thảo,Thị Đ nhận thức được hành vi đưa người khác xuất cảnh trái phép là vi phạm pháp luật, nhưng vì mục đích lợi nhuận là được trả tiền công nên các bị cáo vẫn thực hiện việc đưa người đến huyện L, tỉnh Bình Phước giao cho người khác để họ tiếp tục đưa đến biên giới để rồi có người nhận đưa qua Camphuchia. Minh chứng rõ nhất là lời khai của 04 người Trung Quốc Li Yong C, He Hong J, Yang J1 và Guo Xian W2 những người này do muốn tìm việc làm bên Camphuchia nên đã thông qua mạng xã hội để liên lạc và được người khác tổ chức cho nhập cảnh trái phép vào Việt Nam bằng đường núi, sau đó qua nhiều giờ đồng hồ được đưa đến Bình Phước để có người đón đưa qua Camphuchia thì bị bắt vào tối ngày 05/12/2021.

Đối với Nguyễn Thị Ph và Nguyễn Hữu Đ ban đầu không biết được V2 sử dụng số tài khoản của P1 và nhờ Điều dùng tài khoản của Điều đề giao dịch nhận và chuyển khoản từ các tài khoản khác nhau có liên quan đến việc tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép, nhưng sau một thời gian khi biết được V2 có tham gia trong việc tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép thì không chủ động báo với cơ quan chức năng hoặc khóa tài khoản mà vẫn để cho V2 tiếp tục sử dụng đồng thời P1 cũng được thụ hưởng 70.000.000đ từ số tiền trong tài khoản của P1 do V2 trực tiếp sử dụng, Điều được hưởng số tiền 30.000.000đ trong tài khoản của Điều. Do vậy tuy không trực tiếp thực hiện đưa đón người xuất cảnh trái phép nhưng thông qua tài khoản cá nhân của minh, P1 và Điều tạo điều kiện, giúp sức cho V2 tiện việc giao dịch nhận và trả tiền công liên quan trong việc đưa đón và đường dây tổ chức đưa người xuất cảnh trái phép do vậy P1 và Điều cũng phải chịu trách nhiệm chung với V2.

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Nguyễn Văn V, Nguyễn Thị Ph, Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Quốc T, Nguyễn Hữu Đ, Thị Đ, Phạm Thị Th về tội tổ chức xuất cảnh trái phép theo quy định tại Điều 348 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4]Đối với Điểu Du trong thời gian chờ xét xử đã chết nên tòa án đã đình chỉ xét xử đối với Điểu Du. Nguyễn Minh Hải (Điểu Vơ) khi thực hiện hành vi đón chở người xuất cảnh trái phép Hải mới 14 tuổi 04 tháng 03 ngày chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan an ninh Điều tra không xử lý hình sự.

Đối với 04 người Trung Quốc qua xác minh từ trước đến nay chưa vi phạm pháp luật Việt Nam nên Công an tỉnh Bình Phước đã ban hành quyết định xử lý hành chính bằng hình thức trục xuất.

[5] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực xuất cảnh, xâm phạm đến hoạt động bình thường đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội làm giảm hiệu quả và hiệu lực quản lý hành chính nước trong lĩnh vực xuất cảnh. Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương, hành vi tổ chức xuất cảnh trái phép trong thời gian cả nước đang trong giai đoạn công bố dịch Covid 19.

Bị cáo V2 lợi dụng vào việc xe đăng ký luồng xanh được phép lưu thông liên tỉnh để cung cấp lương thực, nhu yếu phẩm thiết yếu cho những vùng có dịch đã nhận lời của “Mộc Uyển Thanh Tỷ Tỷ” trung chuyển những người nước ngoài từ Đồng Nai đến huyện L, Bình Phước để giao cho người khác nhận sau đó tiếp tục được tổ chức xuất cảnh trái phép. Mặc dù tại phiên tòa, bị cáo V2 không thừa nhận trước đó bản thân bị cáo chở những người nước ngoài đến L không biết mục đích họ sẽ xuất cảnh trái phép, nhưng qua các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện trong các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, bản tự khai của bị cáo thể hiện bị cáo biết được mục đích của “Mộc Uyển Thanh Tỷ Tỷ” thuê bị cáo đưa những người nước ngoài từ Đồng Nai đi L, Bình Phước nhằm mục đích là để họ xuất cảnh trái phép (bút lục 52,55,56,324,325,328,329,330). Bị cáo cũng khẳng định quá trình điều tra, không bị ép cung, dụ cung hay dùng nhục hình do vậy Viên kiể sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo theo điểm b khoản 2 Điều 348 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[6]Đối với tình tiết thu lợi bất chính từ 100.000.000đ đến 500.000.000đ hội đồng xét xử nhận thấy chưa có căn cứ chứng minh bị cáo V2 và T1 thu lợi trên 100.000.000đ nên không áp dụng tình tiết định khung quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 348 Bộ luật hình sự đối với V2 và T1.

Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nên cần có một hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của các bị cáo.

[7]Xác định vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo không lập kế hoạch cụ thể mà chỉ là thông qua điện thoại, mạng xã hội Zalo để thông báo cho nhau thực hiện các hành vi, tuy nhiên cũng cần phân tích vai trò từng bị cáo để cụ thể hóa hình phạt cho phù hợp với vai trò của mỗi bị cáo.

Trước hết đối với Nguyễn Văn V là người liên hệ trực tiếp với người có tên “Mộc Uyển Thanh Tỷ Tỷ” thông qua Zalo, V2 cũng không biết nhân thân của người này. Thông qua Zalo đã nhiều lần nhận khách của “Mộc Uyển Thanh Tỷ Tỷ” đưa người từ Đồng Nai đi Bình Phước sau đó có người khác nhận và đưa người đến khu vực biên giới và giao cho người khác để đưa họ xuất cảnh trái phép.

V2 đã thừa nhận trực tiếp chở hơn 10 chuyến mỗi chuyến 02 người. Ngoài ra sau khi được “Mộc Uyển Thanh Tỷ Tỷ” liên hệ chở người V2 đã liên hệ cho T1 và V1 chở người và V2 trực tiếp trả tiền công cho T1 và V1, lần cuối là V2 thuê V1 chở 04 người Trung Quốc thì bị phát hiện. Như vậy, trong vụ án này V2 là người có vai trò tích cực nhất vừa là người thực hành và cũng là người thuê lại T1 và V1 chở người nên phải chịu trách nhiệm cao hơn tất cả các đồng phạm khác.

Đối với T1 và V1, sau khi nghe V2 gợi ý đã hùn tiền mua tải để chở người cho V2. S3 khi nhận khi chở người thấy rằng không phải người Việt Nam, địa điểm đón và nhận cũng là không bình thường, khi nhận khách còn phải quay Clip gửi cho V2 để V2 gửi cho “Mộc Uyển Thanh Tỷ Tỷ” nên T1 và V1 cũng ý thức được việc làm của mình là không hợp pháp do vậy T1 và V1 đã bàn với nhau là sẽ bán xe không thực hiện việc chở người cho V2 nhưng chưa bán xe được thì V1 đã bị bắt. S3 đó T1 đã bán xe lấy tiền trả nợ cho T1 và V1 hết toàn bộ số tiền mượn mua xe. Như vậy vai trò của T1 và V1 gần như nhau nhưng V1 thực hiện việc đưa người xuất cảnh trái phép nhiều hơn T1 nên V1 cũng phải chịu trách nhiện hình sự cao hơn T1. Đối với Thị Đ và Nguyễn Thị Thảo là người thực hiện việc trung chuyển người xuất cảnh từ Lộc Tấn đến khu vực biện giới giao cho người khác, Thảo và Đưa chưa nhận được người và cũng chưa nhận được tiền công đã bị phát hiện tuy nhiên Thảo là người gọi Đưa, Du và Hải nên hình phạt đối với Thảo phải cao hơn Thị Đ. Điểu Du đã chết nên không đề cập. Điểu Minh H chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không xử lý.

[8]Xét về nhân thân:

Bị cáo Nguyễn Văn V có nhân thân xấu, năm 2020 đã bị tòa án nhân dân huyện TP, tỉnh Đồng Nai xử phạt 20.000.000đ về tội đánh bạc, sau khi bản án có hiệu lực, bị cáo không chấp hành nộp phạt và tiếp tục phạm tội khác, do vậy bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nên phải chịu tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo chỉ thừa nhận hành vi tổ chức xuất cảnh trái phép vào ngày 05/12/2021 còn lại tất cả các hành vi phạm tội trước đó bị cáo không thừa nhận nên không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Các bị cáo còn lại có nhân thân tốt, chưa có tiền án, quá trình điều tra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Bị cáo Thảo và Thị Đ phạm tội lần đầu, gia đình có hoàn cảnh khó khăn có xác nhận của UBND xã H, Thị Đ là dân tộc thiểu số, không biết chữ, Thảo và Đưa mới đến địa điểm giao nhận người và chưa thực hiện việc đón người để tiếp tục đưa đi đến biên giới thì đã bị phát hiện, Thị Đ và Thảo nhận thức về pháp luật còn hạn chế vai trò trong đồng phạm là thứ yếu nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Nguyễn Quốc T sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải có cha là người có công với cách mạng, được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, trong thời gian chờ xét xử đã tác động gia đình nộp lại số tiền thu lợi bất chính 23.000.000đ nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo P1 và Điều sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải trong quá trình điều tra đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm và giải quyết vụ án có văn bản xác nhận của cơ quan điều tra. Ngoài ra, trong thời gian chờ xét xử bị cáo P1 và Điều đã tự nguyện xin nộp số tiền thu lợi bất chính là 100.000.000đ nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s,t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[9]Đối với phần thu lợi bất chính của V2, V1, T1 quá trình điều tra, V2 chỉ thừa nhận được “Mộc Uyển Thanh Tỷ Tỷ” trả tiền công mỗi chuyến chở người là 4.500.000đ. Tuy nhiên qua kiểm tra sao kê từ tài khoản Ngân hàng của P1 và Điều, T1 nhận thấy trong thời gian từ 05/10/2021 cho đến ngày 05/12/2021 các tài khoản này thể hiện nhiều giao dịch chuyển tiền đi và đến các tài khoản khác nhau, trong đó xác minh được chủ tài khoản có các giao dịch chuyển tiền đi và đến nhưng không có căn cứ chứng minh liên quan đến hành vi tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép. Cũng không xác định được tài khoản nào là của người có tên “Mộc Uyển Thanh Tỷ Tỷ” tại phiên tòa V2 chỉ thừa nhận thu lợi được 50.000.000đ. T1 thừa nhận 15.000.000đ, V1 thừa nhận 20.000.000đ.

Qua sao kê tài khoản Ngân hàng của Nguyễn Thị Ph tại tài khoản 5906205334xxx mở Ngân hàng NHNoPTNTVN-CNTP Long Khánh-Đồng Nai tính đến ngày 08/12/2021 (ngày V2 bị tạm giữ) số tiền nhiều tài khoản khác nhau chuyển vào 630.327.000đ. Số tiền chuyển khoản đi là 549.300.000 và rút tiền mặt 70.000.000đ. Trong đó xác định được tiền chuyển từ TK 5906205334xxx sang TK số 1527040700156xx do P1 mở Ngân hàng HDBANK là 97.400.000đ, cũng trong tài khoản này Nguyễn Quốc T chuyển vào 20.000.000đ vào ngày 30/11/2021, Lê Thanh H chuyển 20.000.000đ vào ngày 09/12/2021.Tổng cộng trong tài khoản này có số tiền 147.953.779đ và đến 31/12/2021 cũng đã rút hết.

Quá trình điều tra,cơ quan điều tra đã xác minh các số tài khoản liên quan trong việc chuyển và nhận tiền gồm các chủ tài khoản Phạm Thị Thanh M, Huỳnh Thị Thanh L,Phan Thị Huỳnh S, Lê Thị A, Nguyễn Anh T1, Lê Thanh H, Vòng Sáng L3 và một số tài khoản khác chưa xác minh được nhưng không có căn cứ xác định các chủ tài khoản nói trên liên quan đến hành vi tổ chức xuất cảnh trái phép các chủ tài khoản thực hiện các giao dịch thông với nhiều lý do, chẵng hạn như có chủ tài khoản khai do có kinh doanh mua bán nên hằng ngày có nhiều giao dịch thông qua chuyển khoản, thời gian lâu nên không nhớ rõ, có chủ tài khoản xác định cũng có người nhờ chuyển khoản giùm và họ đưa tiền mặt cho chủ tài khoản, cũng có tài khoản do quen biết nên cho V2 mượn tiền và sửa chữa xe nên phát sinh giao dịch theo hình thức chuyển khoản. Do vậy chưa đủ căn cứ để xác định toàn bộ số tiền có trong tài khoản của P1 do V2 trực tiếp sử dụng và tài khoản của Điều là tiền liên quan đến hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trong toàn bộ số tiền có trong tài khoản V2 và P1 đều xác nhận chỉ một mình V2 sử dụng và giao dịch. Trong thời gian đó P1 đã rút 70.000.000đ sử dụng và V2 đồng ý cho Điều rút nhiều lần và Điều đã sử dụng hết 30.000.000đ trong thời gian V2 có hoạt động liên quan đến đường dây tổ chức xuất cảnh trái phép do vậy có cơ sở xác định P1 và V2 đã hưởng lợi từ nguồn tiền liên quan hành vi phạm tội của V2.

Xác định số tiền thu lợi của V2, mặc dù toàn bộ lời khai của V2 chỉ nhận tiền công của “Mộc Uyển Thanh Tỷ Tỷ” mỗi chuyến 4.500.000đ nhưng lời khai này mâu thuẫn với lời khai của T1 và V1 khai mỗi chuyến V2 trả 5.000.000đ. Tuy nhiên T1 xác nhận tại tòa trước khi T1 hùn tiền với V2 mua xe, thì V2 có kể cho T1 nghe việc chở người từ Đồng Nai đi L được trả công mỗi chuyến 8.000.000đ. Nội dung này có căn cứ xác định mỗi lần chở người từ Đồng Nai đến Bình Phước V2 trực tiếp nhận chở sẽ được trả công 8.000.000đ/chuyến. Qua thống kê số lần xe của V2 qua trạm thu phí Tân Khai từ ngày 05/10 đến 05/12/2021 là 20 lượt (bút luc 526) tương đương là 14 chuyến gồm các ngày 23.29,30,31/10/2021 và 01,02,03,04,08,23,26.27,29,30/11/2021 với tiền công 8.000.000đ x 14 chuyến= 112.000.000đ trừ chi phí xăng dầu, tiền qua trạm, tiền ăn mỗi chuyến 1.500.000đ x 14= 21.000.000đ. Như vậy, số tiền thu lợi bất chính của V2 đối với việc đưa người đến Bình Phước 91.000.000đ còn các khoản tiền liên quan đến đường dây tổ chức xuất cảnh trái phép của V2 cùng với “Mộc Uyển Thanh Tỷ Tỷ” chưa chứng minh được.

Nguyễn Quốc T 3 chuyến x 5.000.000đ =15.000.000đ trừ chi phí 4.500.000đ xác định thu lợi bất chính 10.500.000đ; Nguyễn Hoàng V 4 chuyếnx 5.000.000đ = 20.000.000đ trừ chi phí 6.000.000đ xác định thu lợi bất chính 14.000.000đ.

Về phần đề nghị của luật sư L1 và K phải trừ các chi phí trong việc chở người là phù hợp với công văn số 1577/VKSTC-V1 ngày 20/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn nghiệp vụ. Nhưng với mức chi phí cho mỗi chuyến di bằng 2.000.000đ là chưa phù hợp, chỉ chấp nhận chi phí cho mỗi chuyến bằng 1.500.000đ, đối với đề nghị áp dụng các tình tiết phạm tội chưa đạt và xử phạt dưới khung và cho hưởng án treo đối với T1 và V1 là không đủ điều kiện nên hội đồng xét xử không chấp nhận.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt đối với các bị cáo như trong bản luận tội là phù hợp với tính chất mức độ phạm tội của từng bị cáo được hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Về vật chứng vụ án:

-Đối với điện thoại cảm ứng hiệu oppo Reno 65G màu đen; điện thoại Nokia 105 màu đen; 01 điện thoại cảm ứng hiệu Iphone 6S plus, màu bạc; điện thoại Nokia TA-1114, màu đen; xe mô tô biển kiểm soát 93F1-209.xx do Thị Đ đứng tên chủ sở hữu; điện thoại hiệu Redmi; điện thoại hiệu Realme; điện thoại hiệu Oppo; điện thoại hiệu Nokia 105 thu giữ của các bị cáo Nguyễn Văn V, Nguyễn Quốc T, Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Hữu Đ, Thị Đ liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội cần tịch thu hóa giá sung ngân sách nhà nước.

Đối với điện thoại hiệu Oppo thu giữ của Nguyễn Thị Ph không liên quan đến vụ án cần trả cho bị cáo P1.

Đối với xe tải 60C-531.xxlà tài sản của P1 và Điều, xe tải biển số 60C-573.xx của T1 và V1, xe ô tô con biển số 60CA-435.xx do P1 mua, quá trình điều tra cơ quan An Ninh điều tra Công an tỉnh Bình Phước đã xử lý vật chứng trả xe 60C- 435.xx cho P1. Bị cáo P1,T1 đã bán xe cơ quan điều tra không thu giữ.

[11]Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

1.Về tội danh:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn V, Nguyễn Thị Ph, Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Quốc T, Nguyễn Hữu Đ, Thị Đ, Phạm Thị Th phạm tội “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép ”

2.Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 348, điểm h khoản 1 Điều 52 Điều 38, Điều 50,17, 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian tù tính từ ngày 08/12/2021.

Áp dụng khoản 4 Điều 348 phạt bổ sung bị cáo V2 số tiền 30.000.000đ sung Ngân sách nhà nước.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 348, điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 38, Điều 50,17,58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng V 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian tù tính từ ngày 20/12/2021.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 348, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50,17,58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 05 (năm) năm tù.Thời gian tù tính từ ngày 26/12/2021.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo Nguyễn Văn V, Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Quốc T 45 ngày tình từ ngày tuyên án để bảo đảm việc thi hành án.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 348, điểm s,t khoản 1,2 Điều 51 Điều 54,65, Điều 50,17,58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ph 03 (ba) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Thị Ph về Ủy ban nhân dân phường Bảo V2, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu Đ 03 (ba) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Hữu Đ về Ủy ban nhân dân phường Xuân Trung,thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Áp dụng khoản 1 Điều 348, điểm s khoản 1,2 Điều 51 Điều 65, Điều 50,17,58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị Th 01 (01) năm 03 (ba) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Thị Đ 01 (một) năm tù. Cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Phạm Thị Th, Thị Đ về Ủy ban nhân dân xã H, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về vật chứng:

Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu hóa giá sung ngân sách nhà nước; 01 (một) điện thoại cảm ứng hiệu oppo Reno 65G màu đen; 01 (một) điện thoại Nokia 105 màu đen, loại phím bấm; 01 điện thoại cảm ứng hiệu Iphone 6S plus, màu bạc; 01 điện thoại Nokia TA-1114, màu đen; 01 điện thoại hiệu Redmi;01 điện thoại hiệu Realme; 01 điện thoại hiệu Oppo; 01 điện thoại hiệu Nokia 105, 01 xe mô tô Nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius màu Đen-Đỏ, biển kiểm soát 93F1-209.xx đăng ký ngày 09/3/2015.

-Trả cho Nguyễn Thị Ph 01 (một) điện thoại hiệu Oppo.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0006956 ngày 14/02/2023 của Chi cục thi hành án huyện L ) Truy thu số tiền thu lợi bất chính của Nguyễn Thị Ph 70.000.000đ (Bảy mươi triệu), Nguyễn Hữu Đ 30.000.000đ (ba mươi sáu triệu). Bị cáo Điều đã nộp cho Chi cục thi hành án dân sự huyện L 100.000.000 biên lai thu số 0004078 ngày 09/3/2023. Số tiền này sẽ được thi hành khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Truy thu số tiền thu lợi bất chính của Nguyễn Quốc T 10.500.000đ được khấu trừ số tiền đã nộp cho Chi cục THADS huyện L số tiền 23.000.000đ tại biên lai số 0044088 ngày 12/5/2023, Chi cục thi hành án dân sự huyện L trả lại cho Nguyễn Quốc T số tiền 12.500.000đ.

Buộc Nguyễn Hoàng V nộp lại số tiền thu lợi bất chính 14.000.000đ (mười bốn triệu đồng) Buộc Nguyễn Văn V nộp lại số tiền thu lợi bất chính 91.000.000đ (chín mươi mốt triệu đồng)

4. Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy ñònh veà mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Nguyễn Văn V, Nguyễn Thị Ph, Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Quốc T, Nguyễn Hữu Đ, Thị Đ, Phạm Thị Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Đối với người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa, thời gian kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép số 13/2024/HS-ST

Số hiệu:13/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về