Bản án về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi số 33/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 33/2022/HS-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T., Thành phố H xét xử sơ thẩm (xử kín) vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2022/QĐXXST - HS ngày 07 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

NGUYỄN NGỌC M., sinh năm 1978 tại H.; Tên gọi khác: Không; Đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn Đ., xã V., huyện T., Thành phố H.; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn T. và bà Phùng Thị H.; Vợ: Nguyễn Thị H.; Con: Có 3 con (lớn sinh năm 1998; nhỏ sinh năm 2006); Tiền sự: không.

- Tiền án:

+ Ngày 18/9/2013, Tòa án nhân dân huyện T. xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 09/12/2013, chấp hành xong hình phạt (chưa được xóa án tích).

+ Ngày 08/12/2015, Tòa án nhân dân huyện T. xử phạt 16 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 10/12/2016, chấp hành xong hình phạt (chưa được xóa án tích).

+ Ngày 09/3/2018, Tòa án nhân dân huyện T. xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 12/4/2020, chấp hành xong hình phạt (chưa được xóa án tích).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/4/2022 đến nay. (có mặt)

* Bị hại: Cháu Hà Quỳnh T., sinh ngày 09/6/2013; Trú tại: Thôn Đ., xã V., huyện T., TP H. (vắng mặt)

* Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Chị Trần Thu H., sinh năm 1978; anh Hà Trọng H., sinh năm 1974 (là bố, mẹ đẻ cháu T).

Đều trú tại: Thôn Đ., xã V., huyện T., TP H. (vắng mặt)

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Đỗ Thị T. – Trợ giúp viên pháp lý – Thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố H. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 05/4/2022, cháu Hà Quỳnh T. đi mua bánh cho bà nội. Sau khi mua xong, cháu T. đạp xe về nhà, khi đi qua khu vực trước cổng đình thôn Đ., xã V., huyện T., TP H., cháu T. gặp Nguyễn Ngọc M. đang nằm trên ghế đá phía trong tường bao của khuôn viên đình. Thấy cháu T. đi qua, M. ngồi lên vẫy tay gọi “vào đây chú bảo”. Thấy vậy, cháu T. dắt xe đi vòng vào trong, dựa xe vào tường rào trước cổng đình rồi đi về phía M. ngồi. M. hỏi cháu T. tên, tuổi, con nhà ai, cháu T. đều trả lời M. Một lúc sau, quan sát thấy quanh đình không có ai, M. dùng tay phải nắm vào cánh tay cháu T. rồi dắt cháu T. vào khu vực nhà vệ sinh phía trong đình. Tại đây, M. để cháu T. ngồi xuống 01 chiếc ghế băng bằng gỗ, mặt hướng về phía sân đình rồi ngồi xổm bên trái cháu T.. Lúc này, M. dùng tay phải vòng ra phía sau lưng cháu T., rồi lại vòng tay ra phía trước, dùng cả hai tay sờ, bóp hai bên đùi, dùng miệng hôn vào má trái cháu T. M. đi lên phía trước ngồi đối diện với cháu T., hai tay ôm vào người rồi cúi khom người hôn vào ngực trái T., đồng thời dùng hai tay xoa lưng cháu T.. Thấy vậy, T. đứng lên khỏi ghế thì M. dùng hai tay túm hai bên quần của cháu Trang kéo xuống đến đầu gối để lộ bộ phận sinh dục của cháu T. Mạnh ngồi xổm, hai tay để lên chân cháu T. rồi cúi người hôn vào bộ phận sinh dục của cháu T.. Cháu T. hoảng sợ nói “cháu phải về mua đồ cho em cháu” rồi kéo quần lên và bỏ chạy ra ngoài, dắt xe đi về nhà. Mạnh quay lại ghế đá bên ngoài cổng đình ngồi. M. không cưỡng ép, đe dọa hay đánh đập cháu T., không có ý định giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với cháu Trang. Khi về đến nhà, cháu T. vào nhà vệ sinh, dùng nước vệ sinh bộ phận sinh dục. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, trước khi đi ngủ, cháu T. đã kể lại sự việc cho chị Trần Thu H. (là mẹ đẻ cháu Trang). Sau khi biết sự việc, chị H. đi tìm M. Đến khoảng 13 giờ ngày 06/4/2022, khi phát hiện M. đang ngồi trên ghế đá trước cổng đình có đặc điểm giống với đối tượng cháu T. đã mô tả, chị Hằng đã đến Công an xã Vạn Điểm trình báo sự việc.

Tại Bản kết luận giám định số 2146/KL-KTHS ngày 12/4/2022 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, kết luận: Âm hộ, âm đạo, tầng sinh môn của cháu Hà Quỳnh Trang không tổn thương; màng trinh không rách, không tổn thương. Trên thân thể cháu Hà Quỳnh T. không có dấu vết tổn thương.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình cháu Hà Quỳnh T. không yêu cầu, đề nghị gì về dân sự.

Tại bản cáo trạng số: 26/CT – VKS ngày 30/5/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Tín truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc M. phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi ” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T. giữ nguyên quyết định như bản cáo trạng đã truy tố. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Mạnh phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”. Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 146; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt Nguyễn Ngọc Mạnh từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 06/4/2022.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình cháu Hà Quỳnh T. không yêu cầu, đề nghị về dân sự, nên không đề nghị xét.

*Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Hành vi phạm tội của bị cáo đã ảnh hưởng xấu đến tâm lý của cháu Hà Quỳnh T., gây tổn hại về danh dự, nhân phẩm của bản thân cháu T. và gia đình. Để răn đe và giáo dục bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định một hình phạt phù hợp với mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây nên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo ân hận về hành vi phạm tội và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo M. đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của chính bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại; phù hợp với biên bản xác định hiện trường, sơ đồ hiện trường, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, diễn biến quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 05/4/2022, tại khu vực nhà vệ sinh trong đình làng thôn Đ., xã V., huyện T., thành phố H., Nguyễn Ngọc M.đã có hành vi ôm, sờ vào người, vào đùi, hôn vào ngực trái và bộ phận sinh dục của cháu Hà Quỳnh T. để thỏa mãn ham muốn dục vọng nhưng không nhằm mục đích giao cấu. Hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 146 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện T. truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại nhân phẩm, danh dự của con người. Đặc biệt là đối với danh dự của trẻ em là quyền bất khả xâm phạm được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đến quyền nêu trên đều bị xã hội lên án và phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Thời gian gần đây, tình hình xâm hại trẻ em ngày càng nhiều, diễn biến phức tạp và được toàn xã hội quan tâm. Bị cáo là người trưởng thành, khỏe mạnh, có gia đình, nhận thức được hành vi của bản thân và thừa nhận biết rõ điều này qua thông tin đại chúng. Bị cáo biết rõ bị hại còn trong độ tuổi trẻ em nên lợi dụng sự chưa chín chắn trong giới tính để cố ý ôm, sờ vào người, vào đùi, hôn vào ngực trái và bộ phận sinh dục của cháu Hà Quỳnh T. nhằm thỏa mãn dục vọng bản năng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra những tổn thất về danh dự và nhân phẩm của cháu Trang và gia đình bị hại, tác động không nhỏ đến sự phát triển đầy đủ, bình thường về mặt tâm lý và tinh thần của cháu; gây bức xúc, phẫn nộ trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Do đó cần có hình phạt tù nghiêm khắc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm, tuy nhiên bị cáo đã phải chịu tình tiết định khung hình phạt nên không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp cho bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường và cũng không có đề nghị khác, nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Bị hại, Người đại điện hợp pháp cho bị hại; người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại được quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, 332 và 333 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 146; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Mạnh phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi".

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc M. 04 năm 06 tháng (bốn năm sáu tháng) tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (06/4/2022).

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Ngọc M. phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm bị cáo; Người Bảo vệ quyền và lợi ích pháp pháp cho bị hại có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại, đại diện hợp pháp cho bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

528
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi số 33/2022/HS-ST

Số hiệu:33/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Oai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về