TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 25/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 29 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 122/2021/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2021 về việc ly hôn và tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 14/2022/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc Y, sinh năm 1990.
Nơi cư trú: Ấp N, xã Đ, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
- Bị đơn: Anh Trần Thanh T, sinh năm 1985.
Nơi cư trú: Ấp N, xã Đ, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 01 tháng 12 năm 2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc Y trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Vào ngày 19 tháng 6 năm 2008, chị Nguyễn Thị Ngọc Y và anh Trần Thanh T tự nguyện chung sống và có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, nhưng đến ngày 19/5/2014 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn chị Y và anh T chung sống hạnh phúc, đến tháng 10 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng ý kiến, nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Chị Y và anh T không còn sống chung từ tháng 3 năm 2021 cho đến nay.
Về con chung: Trong thời gian chung sống chị Y và anh T có 02 người con chung tên Trần Ngọc C, sinh ngày 09/3/2009 và Trần Ngọc H, sinh ngày 09/3/2009 hiện nay cháu C và cháu H đang sống chung với chị Y.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận.
Về nợ chung: Không có.
Nay chị Y yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:
- Về hôn nhân: Chị Y yêu cầu được ly hôn với anh Trần Thanh T.
- Về con chung: Chị Y yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung tên Trần Ngọc C, sinh ngày 09/3/2009 và Trần Ngọc H, sinh ngày 09/3/2009 cho đến tuổi thành niên và yêu cầu anh Trần Thanh T cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu là 1.000.000 đồng/tháng, cấp dưỡng hàng tháng.
- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã ban hành thông báo thụ lý vụ án số 122/TB- TLVA ngày 03 tháng 12 năm 2021, tống đạt hợp lệ cho bị đơn anh Trần Thanh T, nhưng anh T không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị Y. Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ 02 lần đối với anh T để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T đều vắng mặt không có lý do, nên Tòa án lập biên bản không tiến hành hòa giải được và cũng không có lời khai của anh T trong hồ sơ vụ án.
* Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự, trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, riêng bị đơn chưa thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án, xét thấy nguyên đơn, bị đơn thường xuyên mâu thuẫn với nhau do bất đồng quan điểm sống, không còn sống chung với nhau thời gian dài, không hàn gắn được nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.
- Về con chung: Chị Y và anh T có 02 con chung tên Trần Ngọc C, sinh ngày 09/3/2009 và Trần Ngọc H, sinh ngày 09/3/2009, từ khi sinh ra đến nay hai cháu đều do chị Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, hiện nay hai cháu đang sống chung với chị Y và cháu C, cháu H có nguyện vọng được sống chung với chị Y. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử giao 02 cháu Trần Ngọc C và Trần Ngọc H cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên là phù hợp, tại phiên tòa chị Y không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung nên không đặt ra xem xét. Căn cứ vào khoản 1 Điều 81; khoản 1, 3 Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, giành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho anh T.
- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận nên không đặt ra xem xét.
- Về nợ chung: Chị Y xác định không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.
- Về án phí: Chị Y có đơn yêu cầu ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử nghị án và tuyên án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về thủ tục thụ lý đơn khởi kiện của nguyên đơn và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị Ngọc Y và anh Trần Thanh T cùng cư trú tại ấp N, xã Đ, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Chị Y có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh T và yêu cầu được trực tiếp cuôi con chung. Chị Y đã nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung đã thụ lý đơn và thông báo cho chị Y nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật và chị Y đã thực hiện việc nộp tiền tạm ứng án phí đúng quy định. Như vậy, việc Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng thụ lý đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc Y là đúng thẩm quyền và đúng theo trình tự thủ tục tố tụng theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 191 và Điều 195 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Bị đơn anh Trần Thanh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, anh T vắng mặt không có lý do nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Trần Thanh T.
[1.3] Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc Y yêu cầu nuôi 02 con chung tên Trần Ngọc C, sinh ngày 09/3/2009 và Trần Ngọc H, sinh ngày 09/3/2009 cho đến tuổi thành niên và yêu cầu anh Trần Thanh T cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu là 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi các con chung tròn 18 tuổi, cấp dưỡng hàng tháng. Tại phiên tòa sơ thẩm, chị Y thay đổi yêu cầu khởi kiện là không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi 02 con chung đến tròn 18 tuổi. Xét thấy, việc thay đổi về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu, căn cứ vào khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Về nội dung:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc Y, sinh năm 1990 và anh Trần Thanh T, sinh năm 1985 tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 66, quyển số 01/2014 ngày 19 tháng 5 năm 2014 nên quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Ngọc Y và anh Trần Thanh T là hợp pháp.
[4] Xét lý do xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Ngọc Y, Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng chị Y, anh T hạnh phúc được một thời gian. Đến tháng 10 năm 2018, thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến trong cuộc sống nên vợ chồng không còn hạnh phúc, chị Y và anh T không còn sống chung từ tháng 3 năm 2021 cho đến nay. Chị Y và anh T đã bỏ mặc nhau làm cho tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị Y và anh T trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Y.
[5] Về con chung: Chị Y và anh T có 02 con chung tên Trần Ngọc C, sinh ngày 09/3/2009 và Trần Ngọc H, sinh ngày 09/3/2009, từ khi sinh ra đến nay hai cháu đều do chị Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, hiện nay hai cháu đang sống chung với chị Y và tại biên bản ghi ý kiến lập ngày 20/01/2022, thì cháu C, cháu H có nguyện vọng được sống chung với chị Y. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao 02 cháu Trần Ngọc C và Trần Ngọc H cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.
[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa, chị Y không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung đến tròn 18 tuổi nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[7] Căn cứ vào khoản 1 Điều 81, khoản 1 và khoản 3 Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, anh Trần Thanh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Anh T không được lạm dụng việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của chị Y.
[8] Về tài sản chung: Chị Y tự thỏa thuận với anh T, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[9] Về nợ chung: Chị Y xác định không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[10] Xét đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung giải quyết vụ án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[11] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc Y là người có đơn xin ly hôn nên căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, chị Y phải chịu án phí sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Khoản 1 Điều 56, khoản 1 và khoản 2 Điều 81, khoản 1 và khoản 3 Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;
- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Ngọc Y và anh Trần Thanh T ly hôn.
2. Về con chung: Giao 02 con chung tên Trần Ngọc C, sinh ngày 09/3/2009 và Trần Ngọc H, sinh ngày 09/3/2009 cho chị Nguyễn Thị Ngọc Y trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên. Anh Trần Thanh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Anh T không được lạm dụng việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của chị Y.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.
4. Về tài sản chung: Chị Y tự thỏa với anh T, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.
5. Về nợ chung: Chị Y xác định không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.
6. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0001729 ngày 01 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị Nguyễn Thị Ngọc Y đã nộp xong án phí.
7. Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 25/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 25/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về