Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 76/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 76/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 15 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 132/2022/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị D, sinh năm 1993; địa chỉ: Ấp N, xã A, huyện T, tỉnh Trà Vinh (Có mặt).

2. Bị đơn: Ông Đoàn Thanh N, sinh năm 1990; địa chỉ: Ấp T, xã Tr, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 15/02/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trần Thị D trình bày:

Vào năm 2020, bà Trần Thị D và ông Đoàn Thanh N chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Quảng Hữu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, đăng ký vào ngày 14/5/2020. Sau khi kết hôn bà D và ông N sống hạnh phúc được một thời gian nhưng sau đó đến tháng 5/2021 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau nên cuộc sống không hạnh phúc. Trong quá trình chung sống bà D và ông N có 01 người con chung tên Đoàn Gia P, sinh ngày 28/8/2020, hiện nay đang sống chung với bà D. Về tài sản chung và nợ chung không có.

Tại phiên tòa, bà Trần Thị D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Về hôn nhân xin được ly hôn với ông Đoàn Thanh N; về con chung: Xin được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Đoàn Gia P, sinh ngày 28/8/2020 đến khi thành niên, không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn ông Đoàn Thanh N: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông N, nhưng ông không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông N 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông N để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

- Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền; việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xet xư; nguyên đơn trong qua trinh giai quyết vu an kể tư khi thu ly vu án đến trươc thơi điểm Hội đồng xét xư vao nghi án đã chấp hanh đung các quy đinh cua phap luât về tố tung dân sư riêng bị đơn chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

+ Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Trần Thị D.

+ Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng: Giao con chung là cháu Đoàn Gia P, sinh ngày 28/8/2020 cho bà Trần Thị D được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến khi thành niên, ông Đoàn Thanh N không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà D chưa có yêu cầu.

+ Về tài sản chung: Bà Trần Thị D xác định trong thời gian chung sống bà và ông Đoàn Thanh N không có tài sản chung, bà không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

+ Về nợ chung: Bà Trần Thị D xác định trong thời gian chung sống bà và ông Đoàn Thanh N không có nợ chung, bà không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Đoàn Thanh N từ khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông N nhưng ông không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông N hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do. Tại phiên tòa, bị đơn ông Đoàn Thanh N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông N.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị D xác định bà và ông N chung sống với nhau trên cở sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Quảng Hữu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, đăng ký vào ngày 14/5/2020. Hôn nhân của bà D và ông N tuân thủ các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nên pháp luật công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà Trần Thị D và ông Đoàn Thanh N là hợp pháp. Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 15/02/2022 và ý kiến trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bà D vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông N với lý do trong quá trình chung sống, đến tháng 5/2021 thì hai bên bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày, thường xuyên cãi nhau dẫn đến mâu thuẫn gay gắt, đời sống hôn nhân không hạnh phúc và ông, bà đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Từ khi bà D chính thức xin ly hôn đến nay nhưng hai bên không tìm biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đối với bị đơn ông Đoàn Thanh N, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các tài liệu, chứng cứ mà bên nguyên đơn cung cấp và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho ông N biết nhưng ông không có ý kiến phản đối gì và cũng không trình bày ý kiến gì cho Tòa án. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà D và ông N đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không được nên căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà D được ly hôn với ông N.

[3]. Về con chung: Bà Trần Thị D xác định trong thời gian chung sống bà và ông N có 01 (một) người con chung là Đoàn Gia P, sinh ngày 28/8/2020, hiện nay cháu P đang sống chung với bà D. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà D xác định từ khi bà và ông N sống ly thân thì bà là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu P, hiện nay cháu vẫn đang chung sống với bà nên bà xin được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu đến khi thành niên, không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con. Xét điều kiện, hoàn cảnh thực tế bà D và ông N đã không còn chung sống với nhau tháng 5/2021 cho đến nay, trong khoảng thời gian này cháu P chung sống với bà D, do bà D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, cuộc sống của cháu P đã ổn định về mọi mặt; việc thay đổi điều kiện, hoàn cảnh sống sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lý, tình cảm, sự phát triển bình thường về mọi mặt của cháu. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao con chung là cháu Đoàn Gia P, sinh ngày 28/8/2020 cho bà D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là cần thiết và phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Ngoài ra căn cứ vào khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, dành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho ông Đoàn Thanh N mà không ai được ngăn cản.

[4]. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Quá trình giải quyết vụ án bà Trần Thị D không có yêu cầu ông Đoàn Thanh N cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.

[5]. Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Trần Thị D xác định bà và ông Đoàn Thanh N không có tài sản chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.

[6]. Về nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Trần Thị D xác định bà và ông Đoàn Thanh N không có nợ chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.

[7]. Về án phí: Bà Trần Thị D phải chịu án phí theo qui định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Ông Đoàn Thanh N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[8]. Như đã phân tích nêu trên xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú về đề nghị giải quyết về hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Bà Trần Thị D được ly hôn với ông Đoàn Thanh N.

2. Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung:

+ Về con chung: Giao con chung là cháu Đoàn Gia P, sinh ngày 28/8/2020 cho bà Trần Thị D được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng đến khi thành niên. Dành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho ông Đoàn Thanh N mà không ai được ngăn cản.

+ Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Quá trình giải quyết vụ án bà Trần Thị D không có yêu cầu ông Đoàn Thanh N cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3. Về tài sản chung: Bà Trần Thị D xác định bà và ông Đoàn Thanh N không có tài sản chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về nợ chung: Bà Trần Thị D xác định bà và ông Đoàn Thanh N không có nợ chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0003419 ngày 18/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà D đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ông Đoàn Thanh N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 76/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:76/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về