TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 70/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG
Ngày 05 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 134/2022/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Dư Thị Hồng Đ, sinh năm 1992; địa chỉ: Ấp N, xã L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1993; địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện ngày 25/4/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Dư Thị Hồng Đ trình bày:
Vao năm 2013, bà và ông Nguyễn Văn Tr kết hôn vơi nhau, kết hôn trên cơ sơ tư nguyên va co đăng ky kết hôn tai Ủy ban nhân dân xã Long Phú, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, đăng ký ngày 23/12/2013. Sau khi kết hôn bà Đ và ông Tr sống hạnh phúc được một thời gian nhưng sau đó đến tháng 4/2019 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống nên cuộc sống không hạnh phúc nên ông, bà sống ly thân từ đó đến nay. Trong quá trình chung sống bà Đ và ông Tr có 02 người con chung tên Nguyễn Thị Hồng A, sinh ngày 16/3/2014 và Nguyễn Tuấn N, sinh ngày 30/3/2016, hiện nay các cháu đang sống chung với bà Đ. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
Tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày 27 tháng 7 năm 2022, bà Dư Thị Hồng Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn Tr; về con chung: Xin được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Thị Hồng A và Nguyễn Tuấn N đến khi đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông Tr cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn Tr: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông Tr, nhưng ông không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Tr hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Tr để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do .
- Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền; việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Thâm phan, Thư ký, Hôi đồng xet xư; nguyên đơn trong quá trình giải quyết vu án kê tư khi thu ly vu an đến trước thời điêm Hôi đồng xet xư vao nghi án đã chấp hanh đung cac quy đinh cua phap luật về tố tung dân sư riêng bị đơn chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
+ Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Dư Thị Hồng Đ.
+ Về con chung: Giao các con chung là Nguyễn Thị Hồng A, sinh ngày 16/3/2014 và Nguyễn Tuấn N, sinh ngày 30/3/2016 cho bà Dư Thị Hồng Đ được quyền trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 (mười tám) tuổi; ông Nguyễn Văn Tr không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà Đg không yêu cầu. Dành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho ông Nguyễn Văn Tr mà không ai được quyền ngăn cản.
+ Về tài sản chung: Bà Dư Thị Hồng Đ xác định trong thời gian chung sống bà và ông Nguyễn Văn Tr không có tài sản chung, bà không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.
+ Về nợ chung: Bà Dư Thị Hồng Đ xác định trong thời gian chung sống bà và ông Nguyễn Văn Tr không có nợ chung, bà không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa nguyên đơn bà Dư Thị Hồng Đ đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và bà Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn ông Nguyễn Văn Tr từ khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông Tr nhưng ông không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Tr hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do. Tại phiên tòa, bị đơn ông Tr đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Tr.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Dư Thị Hồng Đ và ông Nguyễn Văn Tr có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Long Phú, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, đăng ký ngày 23/12/2013. Hôn nhân của bà Đ và ông Tr tuân thủ các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nên pháp luật công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà Dư Thị Hồng Đ và ông Nguyễn Văn Tr là hợp pháp. Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 25/4/2022 và ý kiến trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bà Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông Tr với lý do trong quá trình chung sống do hai bên bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày, thường xuyên cải nhau, dẫn đến mâu thuẫn gay gắt, đời sống hôn nhân không hạnh phúc và ông, bà đã sống ly thân từ tháng 4/2019 cho đến nay. Từ khi bà Đ chính thức xin ly hôn đến nay nhưng hai bên không tìm biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn Tr, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các tài liệu, chứng cứ mà bên nguyên đơn cung cấp và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho ông Tr biết nhưng ông không có ý kiến phản đối gì và cũng không trình bày ý kiến gì cho Tòa án. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà Dư Thị Hồng Đ và ông Nguyễn Văn Tr đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Dư Thị Hồng Đ được ly hôn với ông Nguyễn Văn Tr.
[3]. Về con chung: Bà Dư Thị Hồng Đ xác định trong thời gian chung sống bà và ông Nguyễn Văn Tr có 02 (hai) người con chung tên Nguyễn Thị Hồng A, sinh ngày 16/3/2014 và Nguyễn Tuấn N, sinh ngày 30/3/2016, hiện nay các cháu đang sống chung với bà, từ khi bà và ông Tr ly thân đến nay thì cháu Ánh và cháu Ngoan do bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong quá trình giải quyết vụ án bà Đ xin được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu A và cháu N không yêu cầu ông Nguyễn Văn Tr cấp dưỡng nuôi con chung. Xét điều kiện, hoàn cảnh thực tế bà Đ đã không còn chung sống với ông Tr từ tháng 4/2019 cho đến nay, trong khoảng thời gian này cháu Ánh và cháu Ngoan sống chung với bà Đ, do bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, cuộc sống của các cháu đã ổn định về mọi mặt; việc thay đổi điều kiện, hoàn cảnh sống sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lý, tình cảm, sự phát triển bình thường về mọi mặt của các cháu; đồng thời quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành ghi nhận ý kiến cháu A thì nguyện vọng của cháu muốn sống chung với bà Đ. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao con chung là cháu Nguyễn Thị Hồng A, sinh ngày 16/3/2014 và Nguyễn Tuấn N, sinh ngày 30/3/2016 cho bà Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là cần thiết và phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Ngoài ra căn cứ vào khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, dành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho ông Nguyễn Văn Tr mà không ai được ngăn cản.
[4]. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Quá trình giải quyết vụ án bà Dư Thị Hồng Đ chưa có yêu cầu ông Nguyễn Văn Tr cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[5]. Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Dư Thị Hồng Đ xác định bà và ông Nguyễn Văn Tr không có tài sản chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.
[6]. Về nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Dư Thị Hồng Đ xác định bà và ông Nguyễn Văn Tr không có nợ chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.
[7]. Về án phí: Bà Dư Thị Hồng Đ phải chịu án phí theo qui định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Ông Nguyễn Văn Tr không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[8]. Như đã phân tích nêu trên xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú về đề nghị giải quyết về hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Bà Dư Thị Hồng Đ được ly hôn với ông Nguyễn Văn Tr.
2. Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung:
+ Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Thị Hồng A, sinh ngày 16/3/2014 và cháu Nguyễn Tuấn N, sinh ngày 30/3/2016 cho bà Dư Thị Hồng Đ trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng đến khi đủ 18 (mười tám) tuổi. Dành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho ông Nguyễn Văn Tr mà không ai được ngăn cản.
+ Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Quá trình giải quyết vụ án bà Dư Thị Hồng Đ chưa có yêu cầu ông Nguyễn Văn Tr cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
3. Về tài sản chung: Bà Dư Thị Hồng Đ xác định bà và ông Nguyễn Văn Tr không có tài sản chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
4. Về nợ chung: Bà Dư Thị Hồng Đ xác định ông và ông Nguyễn Văn Tr không có nợ chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Dư Thị Hồng Đ phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0003432 ngày 25/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà Dư Thị Hồng Đ đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ông Nguyễn Văn Tr không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.
7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 70/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 70/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về