Bản án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con số 64/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ

 BẢN ÁN 64/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP VỀ NUÔI CON 

Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 131/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2021 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Bùi Văn L, sinh năm 1984 Địa chỉ: Thôn Tr, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hoá.

Bị đơn: Chị Bùi Thị D, sinh năm 1987 Nơi đăng ký HKTT: Thôn Tr, xã T, huyện T, Thanh Hoá.

Nơi ở hiện nay: Thôn C, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hoá Tại phiên toà vắng mặt anh L và chị D. Anh L và chị D đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 15/6/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, anh Bùi Văn L trình bày: Anh và chị Bùi Thị D kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 05/12/2007 tại Uỷ ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hoá. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hoà thuận được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ, chồng không hợp, bất đồng nhiều quan điểm sống dẫn đến việc vợ, chồng thường xuyên cãi nhau. Anh L và chị D đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay, không ai quan tâm đến ai nữa. Đến nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên anh đề nghị Toà án giải quyết cho anh được ly hôn chị Bùi Thị D.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là cháu Bùi Thị Thu H, sinh ngày 01/7/2010; Bùi Kim H, sinh ngày 25/7/2012 và cháu Bùi Mạnh H, sinh ngày 29/4/2015. Ly hôn, anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bùi Kim H và cháu Bùi Mạnh H, giao cháu Bùi Thị Thu H cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Về tài sản: Anh L không yêu cầu Toà án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn, chị Bùi Thị D trình bày:

Về hôn nhân: Về ngày kết hôn, nơi đăng ký kết hôn đúng như nguyên đơn trình bày. Sau khi kết hôn vợ, chồng chung sống với nhau được một thời gian hạnh phúc thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ, chồng không hợp, vợ chồng bất đồng nhiều quan điểm sống. Chị và anh L đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay, không ai quan tâm đến ai nữa. Đến nay chị xác định tình cảm vợ, chồng không còn, nên chị đồng ý ly hôn với anh Bùi Văn L.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là cháu Bùi Thị Thu H, sinh ngày 01/7/2010; Bùi Kim H, sinh ngày 25/7/2012 và cháu Bùi Mạnh H, sinh ngày 29/4/2015. Hiện nay cháu H đang sống cùng chị, cháu H và cháu H đang sống cùng anh L. Sau khi ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bùi Thị Thu H còn giao cháu Bùi Kim H và cháu Bùi Mạnh H cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Về tài sản: Chị D không yêu cầu Toà án giải quyết. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX), Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS); người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56; 58; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình:

- Về hôn nhân: Xử cho anh Bùi Văn L được ly hôn chị Bùi Thị D.

- Về con chung: Giao cháu Bùi Kim H, sinh ngày 25/7/2012 và cháu Bùi Mạnh H, sinh ngày 29/4/2015 cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Bùi Thị Thu H, sinh ngày 01/7/2010 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

- Về án phí: Anh L chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Đây là vụ án Hôn nhân gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án, nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng như Viện kiểm sát được biết.

[2] Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho các đương sự nhưng chị D có đơn xin giải quyết vắng mặt. Do đó, Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vắng mặt chị D và đã thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho chị D theo quy định tại khoản 3 Điều 210 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án cũng đã triệu tập hợp lệ chị D đến phiên hòa giải nhưng chị D không có mặt và có đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt, nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS.

[3] Về tố tụng: Anh Lvà chị D đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ quy định tại khoản 1 điều 227, khoản 1 điều 228 BLTTDS, Toà án xét xử vắng mặt anh L và chị D.

[4] Về hôn nhân: Anh Bùi Văn L và chị Bùi Thị D kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 05/12/2007 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hoá và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống. Anh L và chị D đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay và đều xét thấy tình cảm vợ, chồng không còn đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ, chồng được ly hôn. Điều đó chứng tỏ anh L và chị D đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho anh Bùi Văn L và chị Bùi Thị D được ly hôn. [5] Về con chung: Anh L và chị D có 03 con chung. Anh L và chị D đều thống nhất, sau khi ly hôn giao cháu Bùi Kim H và cháu Bùi Mạnh H cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Bùi Thị Thu H cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Nguyện vọng của cháu Thu H muốn được ở với mẹ, nguyện vọng của cháu Kim H muốn được ở với bố. Xét nguyện vọng của hai bên là chính đáng nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định về mọi mặt cho con. Do đó chấp nhận yêu cầu của anh L và chị D, giao cháu Bùi Kim H và cháu Bùi Mạnh H cho anh Bùi Văn L trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Bùi Thị Thu H cho chị Bùi Thị D trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

[6] Về tài sản: Anh L và chị D không yêu cầu nên không xem xét.

[7] Về án phí: Anh L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56; 58; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 1 điều 227, khoản 1 điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

1. Về hôn nhân: Xử cho anh Bùi Văn L và chị Bùi Thị D được ly hôn.

2. Về con chung: Giao cháu Bùi Kim H, sinh ngày 25/7/2012 và cháu Bùi Mạnh H, sinh ngày 29/4/2015 cho anh Bùi Văn L trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Bùi Thị Thu H, sinh ngày 01/7/2010 cho chị Bùi Thị D trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Anh Bùi Văn L và chị Bùi Thị D có quyền qua lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Bùi Văn L phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền anh đã nộp tạm ứng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành, theo biên lai số AA/2018/0003177 ngày 22/6/2021. Anh L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt anh L và chị D. Anh L và chị D có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con số 64/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:64/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về