Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 94/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 94/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 243/2021/HNGĐ-ST ngày 02 tháng 11 năm 2021, về việc “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1986. ĐKHKTT: Thôn H, xã P, huyện N, tỉnh Hải Dương.

Chỗ ở hiện nay: Thôn An C 2, xã Đ, huyện L, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Anh Đặng Trường Th, sinh năm 1984.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn H, xã P, huyện N, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Đài Loan.

Người được anh Th ủy quyền về việc giao, nhận văn bản tố tụng của Tòa án: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1986.

ĐKHKTT: Thôn H, xã P, huyện N, tỉnh Hải Dương.

Chỗ ở hiện nay: Thôn An C 2, xã Đ, huyện L, tỉnh Hải Dương. Các đương sự đều đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày: Chị và anh Đặng Trường Th được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện N, tỉnh Hải Dương vào ngày 12/3/2011. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc nhưng do điều kiện kinh tế khó khăn, năm 2013 anh Th xuất khẩu đi lao động tại Đài Loan, thời gian đầu anh có liên lạc về nhà, tình cảm vợ chồng vẫn bình thường. Đến năm 2019 anh Th về nước và có nhiều thay đổi. Chị có khuyên anh ở nhà làm ăn và cùng nhau nuôi dạy con cái nhưng anh không đồng ý mà tiếp tục sang Đài Loan lao động cho đến nay chưa về nước. Cũng từ đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và không còn quan tâm đến nhau. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đặng Trường Th.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Đặng Thùy Dương T, sinh ngày 05/5/2012, hiện con đang ở với chị. Khi ly hôn chị đề nghị được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi con thành niên và tự nguyện không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, bị đơn anh Đặng Trường Th trình bày: Anh và chị Phạm Thị H có quan hệ hôn nhân như chị H trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau đến năm 2013 thì anh đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, thời gian vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 8 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng xa cách quá lâu nên tình cảm không còn. Nay, chị H có đơn xin ly hôn, anh nhất trí ly hôn và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Về con chung: Anh xác định vợ chồng có một con chung như chị H trình bày là đúng, hiện con đang ở với chị H, do điều kiện anh đi làm ăn xa nên anh nhất trí để chị H nuôi dưỡng con chung. Sau này về nước anh sẽ đề nghị thay đổi nuôi con sau.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người được anh Th ủy quyền về việc giao, nhận văn bản tố tụng tại Tòa án - chị Phạm Thị H trình bày: Chị nhất trí nhận ủy quyền của anh Th, sau khi nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án, chị đã thông báo cho anh Th biết, anh Th vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

Tòa án xác minh tại chính quyền địa phương nơi chị H, anh Th đăng ký kết hôn thể hiện: Chị H và anh Th có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn được một thời gian ngắn thì anh Th về quê chị H sinh sống nên địa phương không nắm bắt được mâu thuẫn của vợ chồng. Địa phương xác định anh chị có một con chung là Đặng Thùy Dương T và có đăng ký khai sinh tại địa phương. Nay, chị H có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Cháu Đặng Thùy Dương T có nguyện vọng được ở với mẹ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh Th đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Đặng Trường Th. Về con chung: Giao con chung Đặng Thùy Dương T cho chị H nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên, chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Chị H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Phạm Thị H sinh sống tại thôn An C 2, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương. Bị đơn anh Đặng Trường Th có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại thôn H, xã P, huyện N, tỉnh Hải Dương, hiện anh Th đang lao động tại Đài Loan. Do vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù anh Th không về Việt Nam tham gia tố tụng nhưng anh đã gửi đơn xin ly hôn, bản tự khai đến Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương. Tòa án đã trưng cầu giám định dấu vân tay của anh Th đối với các tài liệu này. Kết quả giám định cho thấy, dấu vân tay của anh Th trong các tài liệu trên so với dấu vân tay in trong tờ khai chứng minh nhân dân, chỉ bản của anh Th là của cùng một người. Do vậy có đủ cơ sở khẳng định ý chí, quan điểm ly hôn của anh Th là hoàn toàn tự nguyện. Chị H, anh Th đều có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị H và anh Đặng Trường Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện N, tỉnh Hải Dương vào ngày 12/3/2011, do vậy hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì anh Th đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, đến năm 2019 anh về nước sau đó lại tiếp tục sang Đài Loan làm ăn sinh sống cho đến nay. Do sống xa nhau nên vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn. Nay cả 2 anh chị đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị H có đơn xin ly hôn anh Th cũng nhất trí. Hội đồng xét xử thấy, mâu thuẫn giữa chị H và anh Th đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, có căn chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

[2.2] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có một chung là Đặng Thùy Dương T, sinh ngày 05/5/2012, hiện con đang ở với chị H. Do anh Th không có mặt tại Việt Nam nên anh không có điều kiện để trực tiếp chăm sóc con chung, anh chị đã thống nhất giao con chung cho chị H nuôi dưỡng là phù H với quy định của pháp luật, phù H với thực tế và nguyện vọng của cháu T. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; 56; 81; 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị H ly hôn anh Đặng Trường Th.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Phạm Thị H được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Đặng Thùy Dương T, sinh ngày 05/5/2012 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh Đặng Trường Th được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được đối trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm chị H đã nộp, theo biên lai thu số AA/2020/0004574 ngày 01/11/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị H đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Đặng Trường Th được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 94/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:94/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:17/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về