Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 87/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 87/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 2040/2021/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Đào Xuân N, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Khu phố A, phường B, thành phố C, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1981.

Địa chỉ: Khu phố A, phường B, thành phố C, tỉnh Đồng Nai.

(Anh N, chị T có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Đào Xuân N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Năm 2004, anh và chị Trần Thị T kết hôn và đăng ký tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố C, tỉnh Đồng Nai. Năm 2006, anh và chị T có con thứ nhất là cháu Đào Xuân Nam Q. Đến năm 2007, anh và chị T có con thứ hai là cháu Đào Quốc T1. Cuộc sống hôn nhân giữa anh và chị T bắt đầu xảy ra mâu thuẫn gay gắt từ năm 2008. Vì 02 con còn nhỏ nên bản thân anh đã cố gắng chịu đựng để nuôi dạy các con thành người. Đến năm 2017, cuộc sống hôn nhân giữa anh và chị T không thể cải thiện, anh và chị T thường xuyên mâu thuẫn và xung đột gay gắt trong gia đình nên anh đã chủ động sống ly thân với chị T từ năm 2018 cho đến nay. Đến năm 2020, anh đã nhiều lần đề nghị chị T ly hôn nhưng hết lần này đến lần khác chị T ký đơn thuận tình rồi lại thay đổi ý kiến. Vì vậy, anh đã làm đơn ly hôn đơn phương ra Tòa án.

Xét về tình cảm giữa anh và chị T đã không còn, vợ chồng đã ly thân nhiều năm, mâu thuẫn vợ chồng gay gắt không thể hàn gắn, nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý và quá trình phát triển của các con nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị T.

- Về con chung: Anh và chị T có 02 con chung là các cháu Đào Xuân Nam Q, sinh ngày 25 tháng 6 năm 2006 và Đào Quốc T1, sinh ngày 12 tháng 8 năm 2007. Khi ly hôn, anh yêu cầu được nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Q; chị T nuôi dưỡng, chăm sóc cháu T1; các bên tạm thời không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Tại phiên tòa, anh thay đổi ý kiến nhường quyền nuôi cả 02 con chung cho chị T và anh cấp dưỡng nuôi 02 con chung 5.000.000 đồng/tháng (mỗi cháu 2.500.000 đồng).

- Về tài sản chung: Anh và chị T không có tài sản chung.

- Về nợ chung: Anh và chị T không có nợ chung.

Theo bản tự khai và tại phiên tòa, bị đơn chị Trần Thị T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh N đăng ký kết hôn năm 2004 tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố C, tỉnh Đồng Nai. Trong quá trình chung sống, chị và anh N không xảy ra mâu thuẫn gì ngoài việc anh N đi ngoại tình. Từ Năm 2018, anh N đi xuyên đêm không về nhà với chị và các con. Tuy nhiên, anh N vẫn có trách nhiệm với các con, vẫn quan tâm đến chuyện học tập của các con. Chị không đồng ý ly hôn với anh N.

- Về con chung: Chị và anh N có 02 con chung là các cháu Đào Xuân Nam Q, sinh ngày 25 tháng 6 năm 2006 và Đào Quốc T1, sinh ngày 12 tháng 8 năm 2007. Hiện chị và 02 con đang ở cùng với bố mẹ của anh N. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi dưỡng và chăm sóc cả 02 con chung. Về vấn đề cấp dưỡng thì chị không có ý kiến gì.

Tại phiên tòa, anh N thay đổi ý kiến để chị nuôi dưỡng, chăm sóc 02 con chung và anh N cấp dưỡng nuôi 02 con chung 5.000.000 đồng/tháng (mỗi con 2.500.000 đồng) thì chị đồng ý và không yêu cầu gì thêm.

- Về tài sản chung: Chị và anh N không có tài sản chung.

- Về nợ chung: Chị và anh N không có nợ chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm quyền, xác định tư cách đương sự, quan hệ pháp luật và việc xác minh, thu thập chứng cứ, giao nhận các văn bản tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định; Quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được bảo đảm theo quy định của pháp luật. Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Đào Xuân N và chị Trần Thị T tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn nên hôn nhân giữa chị T và anh N là hợp pháp.

Theo lời khai của anh N thì trong quá trình sinh sống thường xuyên phát sinh xung đột, mâu thuẫn từ năm 2008 đến nay. Do cuộc sống hôn nhân không hòa hợp, không hạnh phúc, mâu thuẫn gia đình ngày càng trở nên gay gắt không thể hàn gắn nên từ cuối năm 2017 anh N đã sống ly thân với chị T. Xét thấy cuộc sống gia đình không thể hàn gắn nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới tâm lý và quá trình phát triển thể chất và tinh thần của 02 con, do đó anh N làm đơn ly hôn.

Chị T cho rằng trong quá trình chung sống vợ chồng không xảy ra mâu thuẫn gì ngoài việc anh N đi ngoại tình. Từ năm 2018, anh N đi xuyên đêm không về với vợ, tuy vậy anh N vẫn có trách nhiệm với con, quan tâm chuyện học tập của con. Chị T không đồng ý ly hôn.

Qua xác minh tại địa phương, khoảng 02 năm trở lại đây, vợ chồng anh N và chị T có mâu thuẫn và anh N đã chuyển ra ngoài sinh sống.

Qua đó có thể thấy giữa anh N và chị T trong quá trình chung sống có mâu thuẫn. Xét thấy hạnh phúc gia đình phải đến từ hai phía, do cả 02 vợ chồng cùng vun đắp. Mặc dù, chị T không muốn ly hôn nhưng anh N đã không còn tình cảm và muốn ly hôn với chị T. Như vậy, có thể thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh N đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể k o dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của anh N đối với chị T.

Về con chung: Anh N và chị T có 02 con chung là cháu Đào Xuân Nam Q, sinh ngày 25 tháng 6 năm 2006; Đào Quốc T1, sinh ngày 12 tháng 8 năm 2007. Trước đây, anh N có nguyện vọng nuôi cháu Đào Xuân Nam Q, giao cháu Đào Quốc T1 cho chị T chăm sóc, nuôi dưỡng. Tuy nhiên tại phiên tòa, anh N đã thay đổi yêu cầu khởi kiện, anh nhường quyền nuôi dưỡng, chăm sóc 02 con cho chị T. Điều này cũng phù hợp với nguyện vọng được nuôi 02 con của chị T. Do đó, để ổn định cuộc sống của 02 cháu cần giao 02 cháu Q và T1 cho chị T chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi 02 con mỗi tháng 5.000.000 đồng/tháng của anh N.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh N và chị T đều khai không có nên không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Anh N phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Đào Xuân N có đơn yêu cầu ly hôn với chị Trần Thị T, địa chỉ tại: Khu phố A, phường B, thành phố C, tỉnh Đồng Nai và yêu cầu Tòa án xác định người trực tiếp nuôi con chung khi ly hôn. Do đó, anh N được xác định là nguyên đơn, chị T được xác định là bị đơn trong vụ án; quan hệ tranh chấp được xác định là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh N và chị T đã đăng ký kết hôn tự nguyện, đã được Ủy ban nhân dân phường B, thành phố C, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 17 tháng 9 năm 2004 nên được xác định là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa anh N và chị T là có thật. Do mâu thuẫn về tình cảm nên anh N và chị T không còn sống chung từ năm 2018 đến nay. Điều này được chị T và anh N thừa nhận tại các bản tự khai và tại phiên tòa. Chị T không đồng ý ly hôn với anh N nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, chị T không đưa ra phương án hàn gắn, hòa giải để hai vợ chồng đoàn tụ. Bên cạnh đó, anh N kiên quyết ly hôn, không mong muốn được hàn gắn với chị T. Theo Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các canh việc trong gia đình. 2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau”. Như vậy, anh N và chị T không còn quan tâm chăm sóc nhau, không còn thực hiện quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau, không cùng mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy việc anh N khởi kiện yêu cầu ly hôn với chị T là có căn cứ chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Anh N và chị T có 02 con chung là các cháu Đào Xuân Nam Q, sinh ngày 25 tháng 6 năm 2006 và Đào Quốc T1, sinh ngày 12 tháng 8 năm 2007. Trước đây, anh N có yêu cầu nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Đào Xuân Nam Q, giao cháu Đào Quốc T1 cho chị T chăm sóc, nuôi dưỡng. Tuy nhiên, tại phiên tòa, anh N thay đổi yêu cầu nhường quyền nuôi dưỡng, chăm sóc 02 con chung cho chị T; chị T cũng có ý kiến được nuôi dưỡng, chăm sóc cả 02 con chung. Hiện nay, các cháu Q và cháu T1 đang sinh sống ổn định, phát triển bình thường cùng với chị T, đồng thời anh N đã nhường quyền nuôi 02 con chung cho chị T nên để đảm bảo ổn định cuộc sống và tránh sự ảnh hưởng về tâm lý của các cháu nên tiếp tục giao 02 con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, anh N tự nguyện cấp dưỡng nuôi 02 con chung 5.000.000 đồng/tháng (mỗi con 2.500.000 đồng/tháng) và chị T đồng ý nên ghi nhận ý kiến của các đương sự.

[2.3] Về tài sản chung: Anh N, chị T xác định không có tài sản chung.

[2.4] Về nợ chung: Anh N, chị T cam kết không có nợ chung.

[3] Về án phí: Anh N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng theo quy định.

[4] Quan điểm của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử và các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 8, 9, 19, 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn anh Đào Xuân N đối với bị đơn chị Trần Thị T.

2. Về con chung: Giao cháu Đào Xuân Nam Q, sinh ngày 25 tháng 6 năm 2006 và cháu Đào Quốc T1, sinh ngày 12 tháng 8 năm 2007 cho chị Trần Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh N cấp dưỡng nuôi 02 con chung 5.000.000 đồng/tháng (mỗi con 2.500.000 đồng/tháng) kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi các con trưởng thành và đủ khả năng lao động.

Trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ về cấp dưỡng thì kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt theo quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, trong trường hợp có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Các đương sự xác định không có nên không xem xét, giải quyết.

4. Về nợ chung: Các đương sự xác định không có nên không xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Anh Đào Xuân N phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí anh N đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000548 ngày 30 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa. Anh N còn phải nộp 300.000 đồng tiền án phí.

6. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 9 Luật thi hành án dân sự và các điều 7, 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

7. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 87/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:87/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:25/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về