Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 68/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 68/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 23 tháng 6 năm 2021, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường, vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 108/2021/TLST-HN&GĐ, ngày 01 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 85/2021/QĐXXST-HN&GĐ, ngày 21 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 68/2021/QĐST- HN&GĐ, ngày 08/6/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thu H, sinh năm: 1985;

Nơi cư trú: Số nhà **, đường số 05, tổ 9, thôn 3, xã ĐH, huyện ĐL, tỉnh BT.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đức V, sinh năm: 1979;

Nơi cư trú: Số nhà **, đường số 7, tổ 9, thôn 3, xã ĐH, huyện ĐL, tỉnh BT.

Tại phiên tòa nguyên đơn vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” lập ngày 30/3/2021, cùng các bản tự khai, chứng cứ của chị Trần Thị Thu H có trong hồ sơ vụ án thể hiện:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Đức V tự nguyên tìm hiểu, yêu thương nhau rồi đi đến kết hôn năm 2012, đăng ký kêt hôn tại UBND xã ĐH, huyện ĐL, tỉnh BT, giấy chứng nhận kết hôn số: 40/2012, quyển số 01/2012, đăng ký ngày 18/4/2012. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2015 phát sinh mâu thuẫn về tình cảm và tiền bạc. Cho nên anh chị đã sống ly thân với nhau từ năm 2020 đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Chị xác định không con tình cảm yêu thương, quý trọng đối với anh V nữa. Nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, chị với anh V có với nhau 01 người con chung tên: Trần Thiên K, sinh ngày 12/4/2014. Chị yêu cầu giải quyết quyền được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh V có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 2.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 27/5/2021 chị H có đơn xin xét xử vắng mặt.

Suốt trong quá trình tố tụng vụ án cũng như thời gian mở phiên tòa, bị đơn – anh Nguyễn Đức V không tham gia, mặc dù Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các loại văn bản tố tụng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh phát biểu ý kiến như sau:

Việc tuân thủ theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, thư ký đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Việc chấp hành của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng, bị đơn không thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Quan điểm về giải quyết vụ án: Xét thấy, chị H không còn tình cảm vợ chồng với anh V, hai người đã sống riêng. Mục đích hôn nhân không đạt được, chị H yêu cầu ly hôn nên căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho ly hôn.

Vế con chung: Vì anh V không có ý kiến gì về việc nuôi con, cháu Nguyễn Thiên K, sinh ngày 12/4/2014, nay đã đủ 7 tuổi. Hiện tại cháu đang ở với mẹ và cháu có nguyện vọng được tiếp tục ở với mẹ, chị H tự nguyện tiếp tục nuôi dưỡng cháu nên giao cháu K cho chị H nuôi dưỡng. Buộc anh V phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/ tháng cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về xác định quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện lập ngày 30/3/2021, Toà án xác định đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền: Nguyên đơn, bị đơn có địa chỉ và nơi cư trú rõ ràng trên địa bàn huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị H vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Phước vắng mặt không có lý do. Tuy nhiên, anh V là trường hợp được triệu tập hợp lệ lần thứ 2. Do đó, căn cứ vào quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 BLTTDS, Hội đồng xét xử quyết định xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn tại phiên tòa.

[4] Về hôn nhân: Chị Trần Thị Thu H và anh Nguyễn Đức V có thời gian tự nguyện tìm hiểu, yêu thương nhau và đi đến kết hôn năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐH. Giấy chứng nhận kết hôn số: 40/2012, quyển số 01/2012, đăng ký ngày 18/4/2012. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ theo quy định tại Điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Tuy nhiên, sau ngày cưới, anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do anh chị không hòa hợp về tình cảm và tài chính trong gia đình dẫn đên anh chị đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay. Trong quá trình tố tụng, Tòa án cũng đã tổ chức nhiều phiên hòa giải, nhầm hàn gắn cho anh chị về sống đoàn tụ với nhau, nhưng anh V không tham gia, kết quả hòa giải không thành. Chị H xác định không còn tình cảm yêu thương gì với anh Hoàng nữa, chị nhất định yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh V. Từ đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị H với anh V đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Cho nên Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu giải quyết ly hôn của chị H là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: Chị H yêu cầu giải quyết về cho chị được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên: Trần Thiên K, sinh ngày 12/4/2014. Cháu Trần Thiên K đã trên 7 tuổi và có nguyện vọng được ở với chị H.

Hội đồng xét xử thấy yêu cầu của chị H là yêu cầu hoàn toàn chính đáng, không trái với quy định của pháp luật. Hiện cháu Thiên K đang sống với chị H ổn định và tuổi còn rất nhỏ, cháu đang ở độ tuổi cần sự chăm sóc chu đáo của người mẹ. Do vậy, thấy cần chấp nhận yêu cầu của chị H là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh tại phiên tòa.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Theo khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”. Nay chị H yêu cầu anh V phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, mỗi tháng là 2.000.000 đồng là phù hợp với mức chi phí trung bình tại địa phương. Nghĩ nên buộc anh V phải cấp dưỡng nuôi con Trần Thiên K cho chị H mỗi tháng là 2.000.000 đồng, cấp dưỡng từ tháng 6/2021 cho đến khi con tròn 18 tuổi là phù hợp.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Trần Thị Thu H không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét đến trong bản án này.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H là người phải chịu án phí sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật. Anh V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[9] Về áp dụng án lệ: Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con giữa Trần Thị Thu H và anh Nguyễn Đức V là vụ án Hôn nhân và Gia đình. Theo đơn khởi kiện của chị H thì Tòa án xem xét giải quyết quan hệ ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định của luật Hôn nhân và Gia đình. Nghiên cứu tất cả án lệ do Tòa án nhân dân tối cao công bố, không có vụ án nào tương tự như vụ án đang được xét xử. Vì vậy, HĐXX không áp dụng án lệ mà chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết vụ án.

[10] Xét ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ ngày thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng pháp luật. Phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án là có căn cứ và phù hợp với nội dung vụ án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Điều 8, 9, 51, 56, 81, 82, 83, 110, 116, 117 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điều 2, 6, 7, 7a, 7b, 9 và Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014;

Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Thu H.

1. Về hôn nhân: Chị Trần Thị Thu H ly hôn anh Nguyễn Đức V.

2. Về con chung: Giao cho chị Trần Thị Thu H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung có tên: Trần Thiên K, sinh ngày 12/4/2014.

Anh Nguyễn Đức V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp anh V lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị Trần Thị Thu H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh V.

Chị Trần Thị Thu H trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Nguyễn Đức V trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Nguyễn Đức V phải có nghãi vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị Trần Thị Thu H. Mức cấp dưỡng là 2.000.000 đồng/tháng. Cấp dưỡng hàng tháng, kể từ tháng 6/2021 cho đến khi cháu Trần Thiên K đủ 18 tuổi.

Đối với khoản tiền cấp dưỡng, chị Trần Thị Thu H có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án ngay. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4. Về án phí: Chị Trần Thị Thu H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được tính trừ vào số tiền tạm ứng án phí do chị đã nộp 300.000 đồng, theo biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0001563, ngày 01/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh. Chị H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Nguyễn Đức V phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con và nộp tại Chị cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn, bị đơn đều vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thị hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thỏa thuận thi hành án dân sự, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án, theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, sửa đổi bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 68/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:68/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về