Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 63/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ

 BẢN ÁN 63/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:157/2021/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:64/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T; Sinh năm: 1987 Địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Trịnh Công Đ; Sinh năm: 1978 Địa chỉ: Nông Trường T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 08/7/2021, biên bản lấy lời khai ngày 19/7/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Trịnh Công Đ kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (Sau đây viết tắt là UBND) xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa ngày 23/01/2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hòa thuận đến năm 2014 thì bắt đầu mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xuyên sảy ra mâu thuẫn. Thêm vào đó, anh Đoàn là người ham chơi, không quan tâm đến gia đình và vợ con nên khiến cho cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Thời gian kéo dài khiến cho cả hai vợ chồng đều cảm thấy mệt mỏi, chán nản. Hiện tại, chị và anh Đ đã sống ly thân đến nay được 07 năm, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống được nữa nên đề nghị TAND huyện Thạch Thành giải quyết cho chị được ly hôn anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Trịnh Thị Thùy L, sinh ngày 15/9/2007 và Trịnh Thị T, sinh ngày 09/10/2010. Ly hôn, chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu T và giao cháu L cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 30/7/2021, anh Trịnh Công Đ trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa ngày 23/01/2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng hòa thuận đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do điều kiện kinh tế khó khăn, vợ chồng cùng nhau vào trong Đà Lạt để đi làm. Sau đó, bản thân anh muốn về quê để sinh sống nhưng chị T không đồng ý nên anh đã trở về một mình. Từ đó đến nay, vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh, anh xét thấy tình cảm vợ chồng không thể níu kéo được nữa nên anh cũng đồng ý ly hôn với chị T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Trịnh Thị Thùy L, sinh ngày 15/9/2007 và Trịnh Thị T, sinh ngày 09/10/2010. Ly hôn, anh Đ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con và yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh mỗi tháng cho mỗi cháu là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Anh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của các đương sự trong vụ án. Từ giai đoạn thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như các thành viên của Hội đồng xét xử (Sau đây viết tắt là HĐXX) và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Sau đây viết tắt là BLTTDS). Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của BLTTDS.

Về nội dung: Xét thấy giữa chị Nguyễn Thị T và anh Trịnh Công Đ mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, hạnh phúc hôn nhân không đạt được, nay cả chị T và anh Đ đều đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. Đề nghị áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Về hôn nhân, xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Trịnh Công Đ. Về con chung: Giao cháu Trịnh Thị Thùy L, sinh ngày 15/9/2007 cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trịnh Thị T, sinh ngày 09/10/2010, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng nhưng VKS được biết.

[2]. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự, nhưng anh Đ không có mặt nên Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh Đ theo khoản 3 Điều 210 BLTTDS.

[3]. Anh Đ đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 điều 207 BLTTDS.

[4]. Tại phiên tòa hôm nay, chị T và anh Đ vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt chị T và anh Đ.

[5]. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Trịnh Công Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 23/01/2007 và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp. Sau ngày cưới, vợ chồng sống hòa thuận đến năm 2011 thì mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống cũng như công việc nên vợ chồng thường xuyên sảy ra bất đồng, cãi cọ lẫn nhau. Hiện tại, chị T và anh Đ đã sống ly thân 07 năm, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Việc này, cả chị T và anh Đ đều thừa nhận và cũng phù hợp với nội dung mà Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương. Nay cả chị T và anh Đ đều yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn, chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị Nguyễn Thị T và anh Trịnh Công Đ được ly hôn.

[6]. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Trịnh Thị Thùy L, sinh ngày 15/9/2007 và cháu Trịnh Thị T, sinh ngày 09/10/2010. Bản thân cháu L có nguyện vọng được ở với bố, còn cháu T có nguyện vọng được ở với mẹ. Do đó, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị T, giao cháu L cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu T, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

[7]. Về tài sản: Chị T và anh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[8] Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 BLTTDS; Điều 6; Khoản 1 Điều 24; Điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T và anh Trịnh Công Đ được ly hôn.

2. Về con chung: Giao cháu Trịnh Thị Thùy L, sinh ngày 15/9/2007 cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trịnh Thị T, sinh ngày 09/10/2010, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Chị T, anh Đ có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền chị T đã nộp tạm ứng tại Chi cục Thi hành án dân sự Thạch Thành, theo biên lai số: AA/2018/0003204, ngày 14/7/2021. Chị T đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị Nguyễn Thị T và anh Trịnh Công Đ. Chị T và anh Đ có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 63/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:63/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về