TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 48/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 05 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường xét xử, Toà án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 138/2022/TLST - HNGĐ, ngày 21 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2022/QĐST- HNGĐ, ngày 22 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: chị Lý Thị D.
Địa chỉ cư trú: đội 9, N, xã Tr, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.
2.Bị đơn: anh Đàm Văn Th.
Địa chỉ cư trú: đội 9, N, xã Tr, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh - Vắng mặt tại phiên tòa (anh Th có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn, tại bản tự khai và tại phiên tòa, chị Lý Thị D trình bày: chị và anh Đàm Văn Th kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tr, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, đăng ký kết hôn vào ngày 13/3/2014. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do không hòa hợp nhau và không tìm được tiếng nói chung, thường xuyên cãi vã thậm chí xô xát nhau, anh Th thường đánh đập chửi bới chị, không quan tâm đến vợ con để mặc chị lo toan gia đình, thậm chí anh Th đuổi chị D ra khỏi nhà, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tuy hai vợ chồng ở cùng nhà nhưng đã sống ly thân hơn 4 năm nay, khoảng hơn một tháng nay chị thuê nhà ở Hải Phòng để đi làm công nhân và ở lại không về nhà nữa. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị mong muốn Tòa án giải quyết ly hôn anh Đàm Văn Th. Về con chung, chị và anh Đàm Văn Th sinh được hai con chung là Đàm Phương L, sinh ngày 27/10/2017 và Đàm Đức A, sinh ngày 20/5/2014 hiện đều đang ở với anh Th, để đảm bảo sự ổng định trong việc sinh sống cũng như học tập như hiện nay, hai vợ chồng đã thống nhất thỏa thuận để cho anh Th trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả hai con chung đến tuổi thành niên, chị không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Th. Về tài sản chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, tại bản tự khai, anh Đàm Văn Th có trình bày xác nhận hai vợ chồng đăng ký kết hôn và có hai con chung cũng như tên tuổi ngày tháng năm sinh đúng như chị D trình bày, đồng thời anh Th cũng xác nhận hai vợ chồng xẩy ra mâu thuẫn và hiện hai người sống ly thân khi chị D thuê nhà ở lại chỗ làm việc bên thành phố Hải Phòng hơn một tháng nay, tuy nhiên anh Th lại không nhất trí ly hôn. Về con chung, anh Th cho rằng nếu ly hôn anh có nguyện trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả hai con chung đến tuổi thành niên, chị D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Về tài sản chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, cháu Đàm Đức A, sinh ngày 20/5/2014 có quan điểm muốn ở với anh Đàm Văn Th đến tuổi thành niên, nếu bố mẹ ly hôn.
Tại Phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 19/8/2022, Nguyên đơn, chị Lý Thị D giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, và như trong bản khai của mình trong quá trình giải quyết vụ án, anh Th vắng mặt mặc dù đã được Tòa án thông báo hợp lệ, chị D đề nghị không tiếp tục hòa giải, Tòa án đã tiến hành điều tra xác minh thu thập chứng cứ và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và ấn định thời gian mở phiên tòa. Trong quá trình chuẩn bị mở phiên tòa, ngày 31/8/2022, anh Th có đơn xin xét xử vắng mặt đồng thời trình bày nhất trí ly hôn chị Lý Thị D,về con chung anh sẽ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả hai con chung đến tuổi thành niên, chị D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Về tài sản chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, chị D giữ nguyên yêu cầu khởi kiện cũng như quan điểm của mình như tại Phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 19/8/2022.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:
[1] Chị Lý Thị D và anh Đàm Văn Th kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định tại Uỷ ban nhân dân xã Tràng Lương, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, đăng ký kết hôn vào ngày 13/3/2014, đây là hôn nhân tự nguyện, hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng bước đầu hạnh phúc nhưng được một thời gian thì xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng không tôn trọng nhau, không tin tưởng nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, hai bên chưa làm tròn trách nhiệm đối với gia đình, do không kiềm chế được hai bên cãi vã nhau thậm chí xô xát nhau, tuy vậy chị D cũng không tích cực tìm cách hàn gắn cũng như tìm kiếm các giải pháp hoặc thể hiện trách nhiệm của mình trong việc tạo lập gìn giữ vun đắp hạnh phúc gia đình. Do hai bên đều không tìm cách giải quyết kịp thời mà để mặc mâu thuẫn ngày càng trầm trọng thêm, chị D và anh Th đã sống ly thân nhau nhiều năm nay. Về phần anh Th quá trình giải quyết vụ án có quan điểm không nhất trí ly hôn mặc dù thừa nhận có mâu thuẫn vợ chồng, tuy nhiên, trong thời gian chuẩn bị mở phiên tòa anh Th có đơn xin xét xử vắng mặt, trong đơn anh trình bày nhất trí ly hôn và đồng thuận với quan điểm của chị D về con chung là anh sẽ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả hai con chung đến tuổi thành niên, chị D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Về tài sản chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. HĐXX cho rằng mặc dù anh Th có đơn xin xét xử vắng mặt, trong đó thay đổi quan điểm là nhất trí ly hôn và thống nhất đồng thuận với quan điểm của chị D về các vấn đề cần giải quyết của vụ án, nhưng phù hợp với thực tế cuộc sống của hai vợ chồng là hai người sống ly thân thời gian dài chứng tỏ tình cảm vợ chồng giữa hai người dành cho nhau đã thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, HĐXX thấy yêu cầu của chị D là có căn cứ nên áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 58,81,82,83,84 Luật hôn nhân và gia đình, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị D, xử cho chị Lý Thị D được ly hôn anh Đàm Văn Th.
[2] Về con chung của vợ chồng: Duyên và anh Th có hai con chung tên là Đàm Phương L, sinh ngày 27/10/2017 và Đàm Đức A, sinh ngày 20/5/2014 hiện đều đang ở với anh Th, để đảm bảo sự ổng định trong việc sinh sống cũng như học tập như hiện nay, trong đơn xin xét xử vắng mặt và quan điểm của chị D tại phiên tòa hôm nay là hai bên thống nhất để anh Th trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả hai con chung đến tuổi thành niên, chị D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Th, HĐXX thấy rằng hai bên đương sự thống nhất trong việc giao hai con chung cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên là hợp lý và cũng phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận sự thống nhất thỏa thuận này của hai bên đương sự.
[3] Về tài sản chung: chị Lý Thị D và anh Đàm Văn Th đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, HĐXX không đề cập đến.
[4] Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Lý Thị D phải chịu án phí dân sự ly hôn sơ thẩm.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều phát biểu ý kiến về việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án của Thẩm phán và Thư ký đã tuân theo các quy định của pháp luật và tại phiên toà Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ và đảm bảo quyền lợi của đương sự theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đảm bảo quyền lợi của các đương sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, Điều 58, Điều 81, Điều 82,83,84 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lý Thị D được ly hôn anh Đàm Văn Th; Về con chung giao cho anh Đàm Văn Th trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng hai con chung đến tuổi thành niên, chị D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Th.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 235, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
1. Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, chị Lý Thị D đối với Bị đơn, anh Đàm Văn Th, tuyên xử chị Lý Thị D ly hôn anh Đàm Văn Th.
2. Về con chung: Áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, giao hai con chung tên là Đàm Phương L, sinh ngày 27/10/2017 và Đàm Đức A, sinh ngày 20/5/2014 cho anh Đàm Văn Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến tuổi thành niên (Đủ 18 tuổi), chị Lý Thị D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Th.
Chị Lý Thị D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Khi cần thiết vì lợi ích của con, bên không trực tiếp nuôi con có quyền làm đơn yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về tài sản chung: hai bên đương sự đều không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không đề cập đến.
4. Về án phí và quyền kháng cáo: chị Lý Thị D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự ly hôn sơ thẩm, chị D đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000đồng theo biên lai số 0009411, ngày 21/4/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đông Triều, chị Lý Thị D đã nộp đủ tiền án phí dân sự ly hôn sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt Nguyên đơn, vắng mặt Bị đơn. Báo cho Nguyên đơn biết có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 05/9/2022); Báo cho Bị đơn biết có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 48/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 48/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về