Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ K, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 36/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã K xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 61/2021/TLHNGĐ-ST, ngày 17 tháng 5 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐXXHNGĐ-ST ngày 22 tháng 7 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thùy V, sinh năm 1978.

Địa chỉ: Đường L, khu phố 3, phường 1, thị xã K, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Ông Đào Quốc T, sinh năm 1975.

Địa chỉ: Ấp Ô, xã B, thị xã K, tỉnh Long An.

Bà V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông T vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Thùy V, các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Yêu cầu của nguyên đơn - Bà Nguyễn Thị Thùy V trình bày: Vào năm 2007, bà và ông T yêu thương nhau và được sự đồng ý của hai bên gia đình nên có tổ chức lễ cưới. Ngày 20 tháng 11 năm 2007, ông bà đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn M (nay là phường 1), huyện M (nay là thị xã K). Bà và ông T tự nguyện kết hôn, không bị ai ép buộc. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng hơn 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông T không lo làm ăn, không chăm lo cho cuộc sống vợ con. Sự việc này cứ lặp đi lặp lại và kéo dài đến nay. Từ tháng 9 năm 2017 đến nay, vợ chồng đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai, tự làm tự sống, bỏ mặc cho nhau muốn sống ra sao thì sống. Do đó, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc nữa nên bà yêu cầu ly hôn với ông T, trả lại tự do cho nhau; về con chung: Bà xác định vợ chồng chung sống có hai người con chung tên Đào Văn T, sinh ngày 31 tháng 8 năm 2008, giới tính nam và Đào Hải T, sinh ngày 13 tháng 10 năm 2012, giới tính nam. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục hai người con chung đến tròn 18 tuổi. Bà không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi hai người con chung vì bà đủ điều kiện nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Bà xác định và cam kết trong thời kỳ hôn nhân không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Khi nhận được hồ sơ khởi kiện của bà V, Tòa án nhân dân thị xã K tiến hành thụ lý giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định. Tòa án nhân dân thị xã K đã ra thông báo về việc thụ lý vụ án; các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đã tống đạt hợp lệ cho ông T nhưng ông T không đến tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo các thông báo của Tòa án. Đồng thời, ông T cũng không gửi văn bản nêu ý kiến của ông T cho Tòa án biết về việc bà V khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông T. Do đó, các phiên hòa giải không thể tiến hành được theo quy định pháp luật nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật tranh chấp là ly hôn, tranh chấp về nuôi con, bị đơn là ông T có địa chỉ tại xã B, thị xã K, tỉnh Long An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã K theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của bà V, ông T tại phiên tòa: Bà V, ông T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, nhưng bà V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông T vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà V, ông T là phù hợp theo các Điều 177, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà V và ông T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn Mộc Hóa (nay là phường 1), huyện Mộc Hóa (nay là thị xã K), tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào năm 2007. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Bà V xác định vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 9 năm 2017 đến nay, không ai quan tâm đến ai, tự làm tự sống, bỏ mặc cho nhau muốn sống ra sao thì sống. Do đó, tình trạng hôn nhân giữa bà V và ông T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà V, xử cho bà V được ly hôn với ông T là có căn cứ phù hợp với quy định tại các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Khi ly hôn bà V yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục hai người con chung đến tròn 18 tuổi và không yêu cầu ông T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Bởi vì, hiện tại bà V làm nghề buôn bán, công việc ổn định, thu nhập trung bình được khoảng 8.000.000 đồng/tháng, nhà gần trường học, tiện việc đưa đón con đi học. Đồng thời, hai người con chung có nguyện vọng sống chung với bà V khi bà V và ông T ly hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà V là tiếp tục giao hai người con chung cho bà V được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến tròn 18 tuổi và không buộc ông T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai người con chung là có căn cứ phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà V xác định và cam kết trong thời kỳ hôn nhân không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Áp dụng các Điều 3, 6, 24, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bà V phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 147, 177, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 3, 6, 24, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Thùy V, xử cho bà Nguyễn Thị Thùy V được ly hôn với ông Đào Quốc T.

2. Về con chung:

Tiếp tục giao hai người con chung tên Đào Văn T, sinh ngày 31 tháng 8 năm 2008, giới tính nam và Đào Hải T, sinh ngày 13 tháng 10 năm 2012, giới tính nam cho bà Nguyễn Thị Thùy V được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tròn 18 tuổi.

Ông Đào Quốc T không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai người con chung.

Ông Đào Quốc T được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở ông Đào Quốc T thực hiện quyền này.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con thì theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên thì Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí:

Buộc bà Nguyễn Thị Thùy V phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0009660 ngày 05 tháng 5 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã K. Bà Nguyễn Thị Thùy V đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt đương sự, báo cho biết được quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã Kiến Tường - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về