TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 22/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 24 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 18/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2021, về việc:“Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thúy V; nơi ĐKHKTT: Khu phố 5, thị trấn G, huyện G, tỉnh Quảng Trị; có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Anh Trịnh Quang Th; nơi ĐKHKTT và địa chỉ trước khi xuất cảnh:
Khu phố 5, thị trấn G, huyện G, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, đơn trình bày ý kiến ngày 08/6/2021 Chị Hoàng Thúy V trình bày:
Chị Hoàng Thúy V và Anh Trịnh Quang Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn vào ngày 23/02/2004 tại Ủy ban nhân dân thị trấn G, huyện G, tỉnh Quảng Trị. Quá trình chung sống, vợ chồng sống hạnh phúc được hơn 07 năm thì anh Th đi xuất khẩu lao động; anh Th đi xuất khẩu lao động đã được hơn 10 năm nay nhưng chỉ mới về thăm gia đình được hai lần, hơn bốn năm trở lại đây anh Th không về thăm gia đình, vợ con. Chị Hoàng Thúy V vận động anh Th quay về Việt Nam sinh sống, làm ăn nhưng anh Th không chịu về, từ đó vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẩn, anh Th không quan tâm đến gia đình, hôn nhân đã trầm trọng, không thể kéo dài; nay thấy tình cảm vợ chồng không còn nên Chị Hoàng Thúy V yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn Anh Trịnh Quang Th.
- Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung, gồm các cháu: Trịnh Hoàng Ngọc Á, sinh ngày 01/6/2004; cháu Trịnh Hoàng Ngọc Ch, sinh ngày 22/4/2007; cháu Trịnh Hoàng Ngọc A, sinh ngày 05/01/2017. Nếu ly hôn Chị Hoàng Thúy V có nguyện vọng nuôi cả 03 cháu, không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về thông tin xuất cảnh của Anh Trịnh Quang Th: Theo xác nhận của Phòng quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Quảng Trị cho biết Anh Trịnh Quang Th xuất cảnh ra nước ngoài lần gần nhất là ngày 26/8/2017 qua Sân bay quốc tế Đà Nẵng đến nay chưa có thông tin nhập cảnh trở lại. Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án Tòa án phải tống đạt các văn bản tố tụng cho Anh Trịnh Quang Th thông qua người thân của anh Th là ông Trịnh Quang Đ và bà Nguyễn Thị V (là bố mẹ đẻ của anh Th); hiện trú tại: Thôn Kinh Môn, xã Trung Sơn, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
Tại biên bản làm việc ngày 12/7/2021, ông Trịnh Quang Đ và bà Nguyễn Thị V (là bố mẹ đẻ của anh Th) trình bày ý kiến:
Anh Trịnh Quang Th là con đẻ của ông Trịnh Quang Đ và bà Nguyễn Thị V, có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh là ở tại Khu phố 5, thị trấn G, huyện G, tỉnh Quảng Trị. Hiện tại, anh Th đang lao động tại nước ngoài; mặc dù anh Th có liên lạc với gia đình thông qua Zalo, Facebook và điện thoại nhưng ông Đông và bà Viễn không biết và không được anh Th cung cấp địa chỉ nơi sinh sống và làm việc tại Hàn Quốc. Vợ chồng anh Th và chị V có 03 con chung là cháu Trịnh Hoàng Ngọc Á, sinh ngày 01/6/2004, cháu Trịnh Hoàng Ngọc Ch, sinh ngày 22/4/2007 và cháu Trịnh Hoàng Ngọc A, sinh ngày 05/01/2017; hiện tại các cháu đang ở với mẹ, do chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và cả ba cháu đều đang học tập trên địa bàn thị trấn Gio Linh, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
Trong quá trình giải quyết vụ án, gia đình đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án và đã chụp hình gửi qua Zalo và thông báo cho anh Th biết việc chị V có đơn xin ly hôn và TAND tỉnh Quảng Trị đang thụ lý giải quyết vụ việc. Việc ly hôn do hai vợ chồng chị V và anh Th giải quyết với nhau, gia đình không rõ ý kiến của anh Th như thế nào về việc chị V xin ly hôn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị trình bày ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các Hội thẩm nhân dân, Thư ký đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71 BLTTDS, có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên vi phạm quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228; Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, xử:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thúy V được ly hôn với Anh Trịnh Quang Th.
- Về con chung: Giao cháu Trịnh Hoàng Ngọc Á, sinh ngày 01/6/2004, cháu Trịnh Hoàng Ngọc Ch, sinh ngày 22/4/2007 và cháu Trịnh Hoàng Ngọc A, sinh ngày 05/01/2017 cho Chị Hoàng Thúy V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Hoàng Thúy V không yêu cầu nên không xem xét.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không xét.
- Về án phí: Chị Hoàng Thúy V phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Ngày 08/6/2021, Chị Hoàng Thúy V có đơn khởi kiện xin ly hôn đối với Anh Trịnh Quang Th; tại thời điểm này anh Th đã xuất cảnh, hiện nay chưa có thông tin nhập cảnh trở lại. Trước và sau khi thụ lý vụ án, chị V và người thân của anh Th không cung cấp được địa chỉ nơi sinh sống, làm việc ở nước ngoài của anh Th. Tuy nhiên, anh Th vẫn hay liên lạc với gia đình và các con thông qua điện thoại và mạng xã hội. Anh Th đã được người thân thông tin về việc chị V khởi kiện xin ly hôn và vụ việc đang do TAND tỉnh Quảng Trị giải quyết nhưng vẫn không có ý kiến bằng văn bản, không cung cấp địa chỉ nơi làm việc, cư trú nên được coi là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Do đó, Tòa án căn cứ hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của TAND tối cao về việc:“Giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ” để giải quyết vụ án theo thủ tục chung quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng Anh Trịnh Quang Th vắng mặt nên Tòa án lập biên bản không tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải được; Tòa án đã tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án theo quy định của pháp luật, nhưng phiên tòa ngày 04/8/2021 anh Th vắng mặt lần thứ nhất mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nên Hội đồng xét xử Quyết định hoãn phiên tòa và ấn định lại phiên tòa được xét xử lại vào ngày 24/8/2021 (theo đúng kế hoạch giải quyết vụ án đã thông báo trước cho anh Th). Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập anh Th đến phiên tòa ngày 24/8/2021 thông qua người thân là bố, mẹ đẻ của anh Th. Ngày 18/8/2021, nguyên đơn Chị Hoàng Thúy V có đơn xin xét xử vắng mặt. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Th vẫn vắng mặt không có lý do, nguyên đơn chị V có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn Chị Hoàng Thúy V và bị đơn Anh Trịnh Quang Th.
[2]. Về quan hệ hôn nhân:
Chị Hoàng Thúy V và Anh Trịnh Quang Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 23/02/2004 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Gio Linh, huyện Gio Linh. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị V và anh Th là hợp pháp. Nay Chị Hoàng Thúy V yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn Anh Trịnh Quang Th, nên Tòa án căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS để xem xét giải quyết vụ án.
Xét yêu cầu xin ly hôn của Chị Hoàng Thúy V, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong quá trình chung sống, giữa chị V và anh Th có thời gian chung sống hạnh phúc hơn 07 năm. Tuy nhiên, từ khi anh Th đi xuất khẩu lao động, vợ chồng bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẩn, thời gian dài vợ chồng không liên lạc, không quan tâm đến nhau, anh Th hơn bốn năm trở lại đây không về thăm gia đình; chị V đã nhiều lần yêu cầu anh Th về lại Việt Nam sinh sống nhưng anh Th không đồng ý dẫn đến hôn nhân của vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, cần căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Hoàng Thúy V để xem xét cho chị V được ly hôn đối với Anh Trịnh Quang Th.
[3]. Về con chung: Chị Hoàng Thúy V và Anh Trịnh Quang Th có 03 con chung là cháu Trịnh Hoàng Ngọc Á, sinh ngày 01/6/2004, cháu Trịnh Hoàng Ngọc Ch, sinh ngày 22/4/2007 và cháu Trịnh Hoàng Ngọc A, sinh ngày 05/01/2017. Chị V có nguyện vọng được nuôi cả 03 con chung nếu vợ chồng ly hôn. Xét thấy, từ khi anh Th đi xuất khẩu lao động đến nay, các con của anh Th và chị V đều do chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; các cháu hiện đang học tại địa bàn thị trấn Gio Linh (nơi chị V sinh sống) và các cháu đều có nguyện vọng được ở với mẹ. Do hiện tại anh Th đang ở nước ngoài, không có mặt tại địa phương nên không đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Chị Hoàng Thúy V hiện đang ở tại địa phương, có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con của chị V là có cơ sở. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của chị V giao các cháu cháu Trịnh Hoàng Ngọc Á, sinh ngày 01/6/2004, cháu Trịnh Hoàng Ngọc Ch, sinh ngày 22/4/2007 và cháu Trịnh Hoàng Ngọc A, sinh ngày 05/01/2017 cho chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Sau này khi anh Th về nước nếu có nguyện vọng nuôi dưỡng, chăm sóc các con thì có quyền gửi đơn đến TAND có thẩm quyền để xem xét giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.
[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Nguyên đơn Chị Hoàng Thúy V không yêu cầu Anh Trịnh Quang Th cấp dưỡng nuôi con nên không xét.
[5]. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
[6]. Về án phí: Chị Hoàng Thúy V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 238, khoản 2 Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Chị Hoàng Thúy V, tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thúy V được ly hôn với Anh Trịnh Quang Th.
2. Về con chung: Giao các cháu Trịnh Hoàng Ngọc Á, sinh ngày 01/6/2004, cháu Trịnh Hoàng Ngọc Ch, sinh ngày 22/4/2007 và cháu Trịnh Hoàng Ngọc A, sinh ngày 05/01/2017 cho Chị Hoàng Thúy V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi thành niên và có khả năng lao động, Anh Trịnh Quang Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Người không trực tiếp được giao nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.
3. Về án phí: Chị Hoàng Thúy V phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2010/000846 ngày 02/7/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị (chị V đã nộp đủ án phí).
4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn Chị Hoàng Thúy V có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, bị đơn Anh Trịnh Quang Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 22/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 22/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về