Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 20/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG KHƯƠNG, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 20/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 10 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 66/2021/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2021 về tranh chấp: “ly hôn, nuôi con ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2021/QĐXX-ST ngày 19 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Tạ Thị Bích N.

Địa chỉ: Tổ dân phố M, Thị trấn Mường Khương, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thành L.

Địa chỉ: Tổ dân phố M, Thị trấn Mường Khương, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. (Có đơn xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 30 tháng 6 năm 2021 và bản tự khai ngày 02 tháng 7 năm 2021 nguyên đơn chị Tạ Thị Bích N trình bày: Chị và anh Nguyễn Thành L lấy nhau năm 2008 và làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lùng Vai, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai ngày 21/6/2008. Hôn nhân dựa trên cơ sở tự nguyện, không bên nào ép buộc bên nào. Sau khi cưới nhau về thời gian đầu sống hoà thuận hạnh phúc. Đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do anh L chơi bời không chịu làm ăn nên dẫn tính tình vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày mặc dù đã được hai bên gia đình khuyên bảo động viên nhưng anh L không chịu sửa chữa khuyết điểm. Chị Tạ Thị Bích N xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trở lên trầm trọng. Nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị và anh Nguyễn Thành L được ly hôn.

Về con: Trước khi lấy nhau chị và anh L không ai có con riêng vì vậy không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi lấy nhau về chị và anh L sinh được hai người con chung cháu lớn là Nguyễn Hoàng A sinh ngày 20/6/2009, cháu thứ hai là Nguyễn Hoàng A T sinh ngày 30/11/2016 nguyện vọng của chị nếu được Tòa án giải quyết cho ly hôn anh L thì chị sẽ chăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai cháu Anh, T đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho hai cháu.

Về tài sản: Trước khi kết hôn chị và anh L không có tài sản riêng gì vì vậy không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản chung chị và anh L tự thỏa thuận vì vậy không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về khoản nợ: Chị và anh L không nợ ai và không cho người khác vay nợ vì vậy không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 5 tháng 7 năm 2021 bị đơn là anh Nguyễn Thành L trình bày: Anh và chị Tạ Thị Bích N lấy nhau năm 2008 và đến ngày 21/6/2008 làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã dân xã Lùng Vai, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. từ khi lấy nhau về không có mâu thuẫn gì trầm trọng đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn là do tính tình không hợp dẫn đến bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng hay cãi chửi nhau mặc dù đã được hai bên gia đình khuyên bảo động viên nhung không sửa chữa được. Đến nay chị Tạ Thị Bích N làm đơn xin ly hôn, anh không đồng ý ly hôn với chị N vì anh xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn mong Tòa án hòa giải cho hai vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con chung.

Về con: Trong thời gian chung sống anh, chị không ai có con riêng mà sau khi lấy nhau về sinh được hai người con chung là Nguyễn Hoàng A sinh ngày 20/6/2009 và cháu Nguyễn Hoàng A T sinh ngày 30/11/2016. Nguyện vọng của anh nếu chị N mà cương quyết ly hôn thì anh không nhất trí vì vậy anh không yêu cầu Tòa án giải quyết về con.

Về tài sản và công nợ : Anh không nhất trí ly hôn nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại biên bản Hòa giải ngày 6/8/2021 chị Tạ Thị Bích N và anh Nguyễn Thành L đã thỏa thuận với nhau chị Tạ Thị Bích N nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục hai cháu Nguyễn Hoàng A sinh ngày 20/6/2009, cháu Nguyễn Hoàng A T sinh ngày 30/11/2016. Đến tuổi trưởng thành và anh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho hai cháu, về quan hệ hôn nhân anh chị không thỏa thuận được chị N cương quyết xin ly hôn còn anh L xét thấy tình cảm vẫn còn với chị N mong Tòa án hòa giải để anh chị trở về đoàn tụ xây dựng cuộc sống gia đình nuôi dạy con chung.

Tại phiên tòa sơ thẩm Đại diện viện kiểm sát có ý kiến như sau:

+ Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về công tác xây dựng hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của phiên tòa sơ thẩm, không vi phạm thủ tục tố tụng.

+ Về hướng giải quyết vụ án: Chị Tạ Thị Bích N và anh Nguyễn Thành L xác lập hôn nhân vào năm 2008 và có đăng ký kết hôn vào ngày 21/6/2008. Trước khi kết hôn có tìm hiểu và tự nguyện kết hôn đó là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Nhưng trong quá trình chung sống anh, chị đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng tính tình không hợp dẫn đến bất đồng quan điểm sống chị N và anh L thường xuyên cãi chửi nhau. Tòa án đã tiến hành hòa giải hai lần vì vậy căn cứ khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân gia đình để giải quyết.

Về con: Trước khi kết hôn anh, chị không ai có con riêng vì vậy không xem xét giải quyết.

Con chung: Chấp nhận sự thỏa thuận của chị Tạ Thị Bích N và anh Nguyễn Thành L giao hai cháu Nguyễn Hoàng A sinh ngày 20/6/2009, cháu Nguyễn Hoàng A T sinh ngày 30/11/2016 cho chị Tạ Thị Bích N trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành anh L không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho hai cháu. Nên áp dụng khoản 1, 2 điều 81; Khoản 1, 3 Điều 82; Khoản 1,2 Điều 83 của Luật hôn nhân gia đình để giải quyết.

Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 tuyên về án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành giao Thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn Anh Nguyễn Thành L theo quy định tại điều 196 của Bộ luật tố tụng dân sự, và Tòa án đã tiến hành thông báo hòa giải về phần quan hệ hôn nhân, con chung để giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ và đã đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung. Ngày 31/8/2021 anh L có đơn xin xét xử vắng mặt nên áp dụng khoản 1 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Tạ Thị Bích N và anh Nguyễn Thành L xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2008 và đăng ký kết hôn vào ngày 21/6/2008 tại Ủy ban nhân dân xã Lùng Vai, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.

Trước khi kết hôn có tìm hiểu và tự nguyện kết hôn đó là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Nhung trong quá trình chung sống anh, chị đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng tính tình không hợp dẫn đến bất đồng quan điểm sống Chị N và anh L thường xuyên cãi chửi nhau.Tại các biên bản hòa giải ngày 23/7/2021, ngày 6/8/2021 anh Nguyễn Thành L không nhất trí ly hôn với chị N. Tòa án đã tiến hành hòa giải hai lần nhưng anh chị không đoàn tụ được vì vậy căn cứ khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân gia đình để giải quyết là phù hợp.

[3]. Về con: Trước khi kết hôn anh, chị không ai con riêng vì vậy Tòa án không xem xét giải quyết.

Con chung: ghi nhận sự thỏa thuận của chị Tạ Thị Bích N và anh Nguyễn Thành L giao hai cháu Nguyễn Hoàng A sinh ngày 20/6/2009, cháu Nguyễn Hoàng A T sinh ngày 30/11/2016 cho chị Tạ Thị Bích N trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành, anh L không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho hai cháu. Nên áp dụng khoản 1,2 Điều 81; Khoản 1,3 Điều 82; Khoản 1,2 Điều 83 của Luật hôn nhân gia đình để giải quyết.

[4]. Về tài sản: Chị N và anh L không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết nên hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về khoản nợ: Chị N và anh L không nợ ai hoặc cho người khác vay nợ vì vậy Tòa án không giải quyết.

[6]. Về án phí: Chị Tạ Thị Bích N phải chịu toàn bộ án phí ly hôn quy định khoản 4 điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56; khoản 1,2 Điều 81; khoản 1,3 Điều 82; khoản 1, 2 Điều 83 của Luật hôn nhân gia đình, khoản 1 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Xử:

Về hôn nhân: Chị Tạ Thị Bích N được ly hôn anh Nguyễn Thành L.

Ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau:

Về con: Giao hai cháu Nguyễn Hoàng A sinh ngày 20/6/2009, cháu Nguyễn Hoàng A T sinh ngày 30/11/2016 cho chị Tạ Thị Bích N trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành (Đủ 18 tuổi), anh L không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho hai cháu. Anh Nguyễn Thành L có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở anh L thực hiện quyền này.

Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016.Chị Tạ Thị Bích N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), nhung được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí Ký hiệu AC - 21P số: 0006402 ngày 02/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.

Chị Tạ Thị Bích N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Thành L vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 20/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Khương - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về