Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 198/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 198/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 260/2021/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2021 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 180/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 215/2021/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh M, sinh năm 1998; nơi cư trú: Thôn 9, xã K, huyện N, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Chị C, sinh năm 1996; nơi cư trú: Thôn 8, xã H, huyện N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 29 tháng 3 năm 2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn là anh M trình bày:

Anh kết hôn với chị C vào năm 2018 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện N, thành phố Hải Phòng năm 2020. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại nhà bố mẹ đẻ anh ở thôn 9, xã K, huyện N, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến tháng 11 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh và chị C đã được gia đình hòa giải nhưng không thành. Chị C đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn 8, xã H, huyện N, thành phố Hải Phòng sống từ tháng 11 năm 2020 và vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay anh M khẳng định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị C không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị C.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay ai và không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là chị C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai để chị C có mặt tại phiên tòa nhưng chị C vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là anh M.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện N, thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn là anh M trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn là chị C không tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là anh M.

Về hôn nhân: Anh M được ly hôn chị C.

Về con chung và tài sản chung không có không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Anh M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là chị C có nơi cư trú tại thôn 8, xã H huyện N, thành phố Hải Phòng, Toà án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để chị C có mặt tại Toà án trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là anh M nhưng chị C vắng mặt không có lý do. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện chị C có đăng ký hộ khẩu thường trú và vẫn đang thường xuyên sinh sống tại thôn 8, xã H, huyện N, thành phố Hải Phòng. Toà án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai để chị C có mặt tại phiên toà trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là anh M nhưng chị C vắng mặt tại phiên toà không có lý do. Vì vậy căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là chị C.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa anh M và chị C kết hôn với nhau vào năm 2018 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện N, thành phố Hải Phòng vào năm 2020 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng anh M và chị C chung sống với nhau tại thôn 9, xã K, huyện N, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng anh M và chị C chung sống hoà thuận đến tháng 11 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn anh M trình bày do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Nay anh M khẳng định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị C không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị C. Bị đơn là chị C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ hai nhưng chị C vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để chị C có mặt tại phiên toà trình bày ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của anh M nhưng chị C vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của anh M. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện quá trình vợ chồng anh M và chị C chung sống hòa thuận đến tháng 11 năm 2020 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh M và chị C đã được gia đình hòa giải nhưng không thành. Vợ chồng anh M và chị C đã sống ly thân nhau từ tháng 11 năm 2020 đến nay. Như vậy thể hiện hôn nhân giữa anh M và chị C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Mặt khác chị C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến phiên hòa giải, phiên tòa nhưng chị C vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của anh M. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh M về việc xin ly hôn chị C, cho anh M được ly hôn chị C.

[3] Về con chung: Anh M và chị C không có con chung nên không xem xét giải quyết [4] Về tài sản chung: Anh M trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không vay ai và không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị C chưa có ý kiến về tài sản chung. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, anh M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Cho anh M được ly hôn chị C.

2. Về án phí: Anh M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015968 ngày 25 tháng 6 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, thành phố Hải Phòng. Anh M đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 198/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:198/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về