Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ N, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 449/2021/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị P – Sinh năm 1987

Nơi cư trú: Thôn T, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Ông Phan L – Sinh năm 1984

Nơi cư trú: Thôn T, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản hòa giải và tại phiên tòa - nguyên đơn bà Nguyễn Thị P trình bày:

Bà và ông Phan L tự nguyện đăng ký kết hôn vào năm 2005 tại Ủy ban nhân dân xã N. Quá trình chung sống thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và ông L đánh đập bà nên vợ chồng hay kình cãi nhau. Mặc dù ông bà đang sống chung nhà nhưng không ai quan tâm đến ai. Nay bà không còn tình cảm nên yêu cầu ly hôn với ông Phan L.

Về con chung: Bà và ông L có hai con chung tên Phan Thanh L, sinh ngày 18/8/2006 và Phan Thanh T, sinh ngày 09/9/2016. Ly hôn bà yêu cầu nuôi hai con chung và không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo biên bản lấy lời khai ngày 26/11/2021, biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và biên bản hòa giải ngày 30/11/2021 - bị đơn ông Phan L trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị P tự nguyện đăng ký kết hôn năm 2005 tại Ủy ban nhân dân xã N. Quá trình chung sống không có mâu thuẫn trầm trọng và ông có đánh bà P do nhất thời nóng giận nhưng vẫn còn thương yêu vợ con mong muốn đoàn tụ. Nay ông còn tình cảm nên không đồng ý ly hôn theo yêu cầu bà P.

Về con chung: Ông và bà P có hai con chung tên Phan Thanh L, sinh ngày 18/8/2006 và Phan Thanh T, sinh ngày 09/9/2016. Ông đồng ý giao hai con chung cho bà P nuôi và không cấp dưỡng nuôi con chung nếu giải quyết ly hôn.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại phiên tòa, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã N trình bày quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: nguyên đơn yêu cầu ly hôn là có cơ sở vì tình cảm không còn, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Về con chung: bà P và ông L có hai con chung tên Phan Thanh L, sinh ngày 18/8/2006 và Phan Thanh T, sinh ngày 09/9/2016. Bà P yêu cầu nuôi hai con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Xét nguyện vọng của cháu L là được sống chung với mẹ, cháu T còn nhỏ và hiện nay bà P đang nuôi con chung nên để đảm bảo quyền lợi cho các cháu cần căn cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn giao hai con chung tên Phan Thanh L, sinh ngày 18/8/2006 và Phan Thanh T, sinh ngày 09/9/2016 cho bà P trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con chung, bà P không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Về án phí: bà P nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Phan L đều vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết:

Ông Phan L có hộ khẩu thường trú tại thôn T, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Do đó Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ tranh chấp: Bà Nguyễn Thị P yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con chung với ông Phan L nên Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về nội dung vụ án:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị P và ông Phan L tự nguyện chung sống, kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 48, quyển số 01, cấp ngày 14 tháng 9 năm 2005. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị P và ông Phan L là hợp pháp.

Theo lời trình bày của nguyên đơn thì vợ chồng chung sống không hạnh phúc phát sinh nhiều mâu thuẫn hay kình cãi nhau do bất đồng quan điểm sống và ông L đánh đập bà làm cho tình cảm vợ chồng rạn nứt, không còn quan tâm, thương yêu nhau nữa nên mặc dù sống chung nhà nhưng không ai quan tâm đến ai. Tại biên bản lấy lời khai và biên bản hòa giải (bút lục 18, 22) ông L cũng thừa nhận có đánh bà P do nóng giận nhưng mâu thuẫn không trầm trọng và còn tình cảm nên không đồng ý ly hôn theo yêu cầu bà P. Tại phiên tòa ông L vắng mặt dù được triệu tập hợp lệ là tự từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và không có thiện chí đoàn tụ.

Xét thấy cuộc sống vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau nhưng cuộc sống chung giữa bà P và ông L không hạnh phúc, tình trạng hôn nhân lâm vào trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị P là có căn cứ và phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4.2] Về con chung:

Bà P và ông L có hai con chung tên Phan Thanh L, sinh ngày 18/8/2006 và Phan Thanh T, sinh ngày 09/9/2016. Bà P trình bày hiện nay các con chung đang được bà trực tiếp nuôi dưỡng nên yêu cầu được nuôi hai con chung và không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy cháu T còn nhỏ, hai con chung do bà P trực tiếp nuôi dưỡng và ý kiến của ông L tại biên bản hòa giải ngày 30/11/2021 đồng ý giao hai con chung cho bà P nuôi dưỡng và không cấp dưỡng nuôi con chung.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy: việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục sau khi ly hôn là quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và để đảm bảo cho các cháu có đủ điều kiện phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội nên cần căn cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao hai con chung tên Phan Thanh L, sinh ngày 18/8/2006 và Phan Thanh T, sinh ngày 09/9/2016 cho bà P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp.

Sau khi ly hôn, ông L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà P không yêu cầu nên không xem xét.

[4.3] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[5] Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã N về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, vị đại diện Viện kiểm sát có quan điểm cho rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn và nuôi con chung là có cơ sở chấp nhận và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Quan điểm nói trên của đại diện Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên của Tòa án nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị P phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết án phí, lệ phí Tòa án số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 264, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị P được ly hôn với ông Phan L.

2. Về con chung: Giao hai con chung tên Phan Thanh L, sinh ngày 18/8/2006 và Phan Thanh T, sinh ngày 09/9/2016 cho bà Nguyễn Thị P trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Bà P không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung. Ông L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị P và ông Phan L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị P phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021/0004079 ngày 19/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã N. Bà P đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về