Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 114/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 114/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/11/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 11 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 253/2021/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2021, về việc “Ly hôn, Tranh chấp về nuôi con”; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93a/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13/9/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 96/2021/QĐST-HNGĐ ngày 07/10/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Hoàng Xuân G – Sinh năm 1995.

Hộ khẩu thường trú: Khu phố P, thị trấn P1, huyện H, tỉnh Bình Thuận. Nơi ở hiện nay: Khu phố 7, phường H, thành phố P, tỉnh Bình Thuận.

Bị đơn: Ông Nguyễn Thành V – Sinh năm 1995.

Địa chỉ: Khu phố P, thị trấn P1, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.

Đương sự có mặt: Bà G; Đương sự vắng mặt: Ông V.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 06/5/2021, bản khai của nguyên đơn bà Nguyễn Hoàng Xuân G khai:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Thành V tổ chức lễ cưới vào năm 2015 và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn Phú Long, huyện Hàm Thuận Bắc theo Giấy chứng nhận kết hôn ngày số 01/2014, quyển số 30/2015 ngày 03/4/2015. Việc cưới nhau là do hai bên tự nguyện sau thời gian tìm hiểu 03 năm. Sau khi cưới vợ chồng sống tại khu phố Phú Mỹ, thị trấn Phú Long, huyện Hàm Thuận Bắc. Vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông V thường xuyên tụ tập bạn bè, sử dụng ma túy đã được đưa đi cai nghiện nhưng không bỏ vẫn tiếp tục sử dụng ma túy, không quan tâm gì đến vợ con. Vợ chồng không còn sống chung với nhau từ khoảng ngày 6/5/2021 cho đến nay. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa và bà yêu cầu xin được ly hôn với ông Nguyễn Thành V.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng Bảo N – Sinh ngày 11/6/2015. Hiện nay con đang ở với bà G. Khi ly hôn bà yêu cầu được quyền nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ: Không yêu cầu Tòa giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Thành V trình bày tại bản khai ngày 25 /5/2021:

Về quan hệ hôn nhân: Vợ chồng ông cưới nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân Thị trấn Phú Long, huyện Hàm Thuận Bắc. Việc cưới nhau là do hai bên tự tìm hiểu trong thời gian 03 năm. Từ khi cưới nhau vợ chồng vẫn sống hạnh phúc được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông thường xuyên ăn nhậu về khuya và bị bạn bè rủ rê sử dụng ma túy. Sau khi đi cai nghiện về thì vợ chồng mâu thuẫn là do vợ không tôn trọng gia đình ông, không quan tâm đến gia đình mà vui chơi bên ngoài nên ông có nặng lời với vợ và từ đó bà G bỏ nhà đi. Ông có liên lạc với bà G để vợ chồng trở về chung sống nhưng bà G không trả lời tin nhắn. Nay ông xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn và ông không đồng ý yêu cầu ly hôn của bà G.

Về con chung: Ông Nguyễn Thành Vyêu cầu đoàn tụ nên không yêu cầu giải quyết về con chung. Còn nếu có ly hôn thì con ở với ai thì do con tự quyết định và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con Về tài sản và nợ: Không yêu cầu Tòa giải quyết.

Ngoài ra, ông Nguyễn Thành V vắng mặt nên bà yêu cầu Tòa giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị đơn ông Nguyễn Thành V đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể tiến hành các thủ tụng tố tụng như ghi lời khai, lập biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con với bị đơn. Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con. Bị đơn có địa chỉ tại khu phố Phú Mỹ, thị trấn Phú Long, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Thành V đã được tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án theo quy định của pháp luật nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Hoàng Xuân G và ông Nguyễn Thành V cưới nhau vào năm 2015 và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn Phú Long, huyện Hàm Thuận Bắc theo Giấy chứng nhận kết hôn ngày số 01/2014, quyển số 30/2015 ngày 03/4/2015. Đây là hôn nhân hợp pháp, phù hợp với quy định tại các Điều 8, 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Bà G cho rằng vợ chồng sống hạnh phúc được 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn và nguyên nhân mâu thuẫn là do ông V thường xuyên tụ tập bạn bè, sử dụng ma túy đã được đưa đi cai nghiện nhưng không bỏ vẫn tiếp tục sử dụng ma túy, không quan tâm gì đến vợ con. Vợ chồng bà không còn sống chung với nhau từ khoảng ngày 06/5/2021 cho đến nay. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa và nguyện vọng của bà là yêu cầu xin được ly hôn với ông Nguyễn Thành V.

Hội đồng xét xử nhận định: Trong quá trình Tòa án cho thời gian để vợ chồng suy nghĩ thì ông V không có biện pháp hay giải pháp gì để thuyết phục bà G mà ngược lại ông V không đến Tòa án để giải quyết mà nại ra Tòa muốn giải quyết sao cũng được điều đó thể hiện ông V không thiết tha gì đến hạnh phúc của mình mà làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc ông V yêu cầu đoàn tụ không xuất phát từ tình cảm vợ chồng gây khó khăn cho bà G.

Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông Nguyễn Thành V nhưng ông V cố tình lẫn tránh, vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án theo quy định của pháp luật được. Việc đó thể hiện ý thức xem thường pháp luật, không thiết tha gì đến hạnh phúc và hôn nhân của mình. Do đó, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật. Bà G và ông V thực tế đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục cuộc sống chung được. Do vậy, yêu cầu được ly hôn của bà Nguyễn Hoàng Xuân G là có căn cứ nên chấp nhận.

- Về con chung: Bà Nguyễn Hoàng Xuân G và ông Nguyễn Thành V có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng Bảo N – Sinh ngày 11/6/2015. Hiện nay con đang ở cùng bà G.

Tại đơn khởi kiện cũng như tại phiên tòa, bà G yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con tên Nguyễn Hoàng Bảo N, không yêu cầu ông Nguyễn Thành V cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu nuôi con của bà G, Hội đồng xét xử thấy rằng: Con tên Nguyễn Hoàng Bảo N từ khi sinh ra cho đến nay đều do bà G chăm sóc, giáo dục, ông V không đến Tòa để nêu ý kiến của ông. Vì vậy, giao con chung tên Nguyễn Hoàng Bảo N cho bà G được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Bà G không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Bà Nguyễn Hoàng Xuân G phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

Ông Nguyễn Thành V không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, Điều 70, Điều 72, Khoản 4 Điều 91, Điều 207, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Điều 146, Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Nguyễn Hoàng Xuân G về việc yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Thành V .

Bà Nguyễn Hoàng Xuân G được ly hôn với ông Nguyễn Thành V .

2. Về con chung:

Bà Nguyễn Hoàng Xuân G được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Hoàng Bảo N – Sinh ngày 11/6/2015.

Bà G không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Thành V có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí:

Bà Nguyễn Hoàng Xuân G phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Bà Nguyễn Hoàng Xuân G đã nộp đủ 300.000đồng tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0001772 ngày 12/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận nên không nộp nữa.

Ông Nguyễn Thành V không chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo :

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 05/11/2021), bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 114/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:114/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về