Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 105/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 105/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 7 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 132/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 171/2022/QĐXX-ST ngày 01 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị T, sinh năm: 1981. Địa chỉ: ấp Phong Điền, xã L, huyện G, tỉnh B.

2. Bị đơn: anh Nguyễn Quang C, sinh năm: 1977. Địa chỉ: ấp Phong Điền, xã L, huyện G, tỉnh B.

Tại phiên tòa sơ thẩm, chị T, anh C vắng mặt (chị T có yêu cầu xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 09/3/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T trình bày:

Chị và anh Nguyễn Quang C tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre vào ngày 12/7/2010. Chị và anh C cùng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, sau đó giữa vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh C không chăm lo cho cuộc sống gia đình, mâu thuẫn thời gian dài làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Chị và anh C đã sống ly thân khoảng 10 tháng nay. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh C.

Trong quá trình chung sống chị và anh C có 01 con chung là: Nguyễn Nhựt Thành, sinh ngày 25/5/2010, hiện do chị đang trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, chị có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung, chị không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: chị T khai chị và anh C không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đã tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh C đều vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của anh C.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu:

1. Về tố tụng:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Nguyên đơn thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

2. Về nội dung:

Căn cứ các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị T. Chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Quang C.

Về con chung: giao cháu Nguyễn Nhựt Thành, sinh ngày 25/5/2010 cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi thành niên, ghi nhận chị T không yêu cầu anh C cấp dưỡng cho con chung.

Anh C được quyền thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung, không ai được cản trở anh C thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: chị T trình bày không có nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: chị Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; anh Nguyễn Quang C là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 228 và khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị T và anh C.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: chị T và anh C tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre vào ngày 12/7/2010 nên quan hệ hôn nhân của anh chị được coi là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, chị T cho rằng trong quá trình chung sống thì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh C không chăm lo cho cuộc sống gia đình nên chị và anh C đã sống ly thân với nhau khoảng 10 tháng nay. Chị T xác định chị không còn tình cảm vợ chồng với anh C nữa nên chị T có yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh C.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thông báo các phiên hòa giải với mục đích là hòa giải cho anh chị đoàn tụ nhưng anh C vẫn vắng mặt. Như vậy, tuy biết ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân nhưng anh C đã bỏ mặc không tham gia, không cùng cải thiện tình trạng hôn nhân hiện tại của anh và chị T. Mặc khác, hiện tại chị T và anh C đã sống ly thân với nhau, anh chị không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau như vợ như chồng, không có thời gian đoàn tụ. Điều này chứng tỏ, tình trạng hôn nhân của chị T và anh C đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, việc xin ly hôn của chị T là có căn cứ và phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: chị T và anh C có 01 con chung tên Nguyễn Nhựt Thành, sinh ngày 25/5/2010. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi chị T và anh C sống ly thân cho đến nay, chị T là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị T vẫn đảm bảo tốt quyền và lợi ích của con. Đồng thời, cháu Thành đã trên 07 tuổi, Tòa án đã tiến hành lấy ý kiến và cháu Thành cũng có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ sau khi cha mẹ ly hôn. Do đó, để đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống của cháu Thành nên cần giao cháu Thành cho chị T được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình thì sau khi ly hôn “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Tuy nhiên, chị T không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con, xét thấy đây là sự tự nguyện của chị T, không trái với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử ghi nhận việc chị T khai chị và anh C không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết.

[3] Về án phí: chị T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.

[4] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T. Chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Quang C.

2. Về con chung: ghi nhận chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Quang C có 01 con chung là Nguyễn Nhựt Thành, sinh ngày 25/5/2010.

Giao con chung là cháu Nhựt Thành cho chị T được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Ghi nhận việc chị T không yêu cầu anh C cấp dưỡng cho con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: ghi nhận việc chị T khai chị và anh C không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị T đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0007140 ngày 05 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre; chị T đã nộp đủ án phí.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo đối với bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

110
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 105/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:105/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về