TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D1, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 105/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 30 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D1, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 142/2022/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị H, sinh năm 1982. Thường trú: khu phố T, phường D1, thành phố D1, tỉnh Bình Dương, vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1973. Thường trú: ấp Đ, xã T, huyện T1, tỉnh Kiên Giang. Tạm trú: khu phố T, phường D1, thành phố D1, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Đơn khởi kiện đề ngày 28 tháng 02 năm 2022, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Phạm Thị H trình bày:
Bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Văn P tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2009, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn (nay là phường) D1, huyện (nay là thành phố) D1, tỉnh Bình Dương vào ngày 19/6/2009. Thời gian đầu hạnh P, đến cuối năm 2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra tranh cãi, chồng thường xuyên ăn nhậu không quan tâm đến vợ con. Khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng đã tìm cách giải quyết mâu thuẫn, bà H đã cố gắng hàn gắn quan hệ hôn nhân nhưng không có kết quả; hai bên gia đình không có ý kiến, để hai vợ chồng tự quyết định. Từ năm 2018 vợ chồng không còn sống chung với nhau, bà H và cháu K1 về nhà mẹ ruột tại khu phố Đ, phường T, thành phố D1, tỉnh Bình Dương sinh sống, còn ông P ra thuê nhà trọ để ở. Hiện nay bà H đang làm công nhân may mặc có hợp đồng lao động tại Công ty TNHH Ensin Vina, thu nhập bình quân hơn 9.000.000 đồng/tháng. Nay, bà H không còn tình cảm gì đối với ông P, hai vợ chồng không còn quan hệ vợ chồng, đã sống ly thân đã lâu, không quan tâm đến cuộc sống của nhau. Quá trình chung sống hai vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Văn K1, sinh ngày 26/4/2011. Nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết bao gồm:
1. Về hôn nhân: yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn P.
2. Về con chung: Yêu cầu được nuôi con chung Nguyễn Văn K1, sinh ngày 26/4/2011. Ông Nguyễn Văn P không phải cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án đã triệu tập bị đơn ông Nguyễn Văn P nhưng bị đơn vắng mặt không rõ lý do, không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố D1, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng, đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định; không kiến nghị khắc phục, bổ sung các thủ tục tố tụng. Quan hệ pháp luật là ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa nhận thấy mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Văn P là trầm trọng, không hàn gắn đoàn tụ được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Phạm Thị H khởi kiện tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn ông Nguyễn Văn P hiện nay đang sinh sống và đăng ký tạm trú tại khu phố T, phường D1, thành phố D1, tỉnh Bình Dương nên căn cứ theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố D1, tỉnh Bình Dương; quan hệ pháp luật tranh chấp là “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.
[2] Bị đơn ông Nguyễn Văn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Nguyễn Văn P.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn bà Phạm Thị H với bị đơn ông Nguyễn Văn P tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn (nay là phường) D1, huyện (nay là thành phố) D1, tỉnh Bình Dương và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 149/2009 quyển số 01 ngày 19/6/2009 nên đây là hôn nhân hợp pháp.
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo lời trình bày của bà H trong thời gian chung sống giữa bà H và ông P thời gian đầu hạnh P, đến cuối năm 2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra tranh cãi, ông P thường xuyên ăn nhậu với bạn bè mà không quan tâm đến vợ con. Từ năm 2018 hai vợ chồng không còn sống chung với nhau, bà H và cháu K1 về nhà mẹ ruột tại khu phố Đông Tân, phường Tân Đông Hiệp, thành phố D1, tỉnh Bình Dương sinh sống, còn ông P ra thuê nhà trọ để ở. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án triệu tập bị đơn ông Nguyễn Văn P tham gia tố tụng nhưng ông P vắng mặt không có lý do, không có ý kiến trình bày trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Việc ông P vắng mặt không có lý do là tự từ bỏ quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng, nghĩa vụ chứng minh của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ lời trình bày của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập có đủ căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà H và ông P là thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, bà H yêu cầu được ly hôn với ông P là có căn cứ chấp nhận.
[5] Về con chung: Bà H và ông P có 01 con chung tên Nguyễn Văn K1, sinh ngày 26/4/2011. Bà H yêu cầu được nuôi con chung. Xét thấy, cháu K1 đang sống chung với bà H và có nguyện vọng sống cùng bà H, bà H có việc làm và thu nhập ổn định nên có đủ điều kiện để nuôi con phát triển bình thường. Do vậy, Hội đồng xét xử giao cháu K1 cho bà H nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận sự tự nguyện của bà H không yêu cầu ông P phải cấp dưỡng nuôi con.
[6] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
[7] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố D1, tỉnh Bình Dương.
[8] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 và các Điều 227, 228, 266, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;
- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị H đối với ông Nguyễn Văn P về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Văn P (Giấy chứng nhận kết hôn số 149/2009 quyển số 01 do Ủy ban nhân dân thị trấn (nay là phường) D1, huyện (nay là thành phố) D1, tỉnh Bình Dương cấp ngày 19/6/2009).
- Về con chung: Giao con chung cháu Nguyễn Văn K1, sinh ngày 26/4/2011 cho bà Phạm Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Văn P không phải cấp dưỡng nuôi con.
Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con nếu lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.
- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.
2. Về án phí: Bà Phạm Thị H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng được khấu trừ 300.000 đồng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003563 ngày 10 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D1, tỉnh Bình Dương.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 105/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 105/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về