Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 49/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BN TRE

BẢN ÁN 49/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 157/2022/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2022 về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 114/2022/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị L, sinh năm 1987;

Địa chỉ: số B ấp B, xã S, thành phố B, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Anh T, sinh năm 1974;

Địa chỉ: số S ấp M, xã S, thành phố B, tỉnh Bến Tre.

(Bà L có mặt; Ông T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn bà Phạm Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: bà và ông Nguyễn Anh T kết hôn và đăng ký kết hôn vào năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã S, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Hôn nhân do tự nguyện tìm hiểu. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà chồng, địa chỉ số S ấp M, xã S, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Khoảng 3,4 năm nay thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do khi bà L đi chơi với bạn về hoặc đi công chuyện bên ngoài về thì ông T đánh bà, nhiều lúc nhốt bà ở bên ngoài. Vào ngày 05/3/2022 khi bà đi công chuyện về, ông T nhốt bà bên ngoài, không cho vào nhà. Kể từ ngày 06/3/2022 đến nay, bà dọn về sống chung với cha mẹ một tại số B ấp B, xã S, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Vợ chồng đã ly thân từ ngày 06/3/2022 đến nay. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông T nên bà yêu cầu ly hôn với ông T.

Về con chung: bà và ông T có với nhau 01 con chung tên Nguyễn Phạm Kiều T, sinh ngày 01/12/2011. Sau khi ly hôn, bà L đồng ý để ông T trực tiếp nuôi dưỡng con, về mức cấp dưỡng nuôi con các bên tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: không có.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp tiếp cận, công khai tài liệu chứng cứ, hòa giải và các văn bản t tụng khác nhưng Ông T Vắng mặt.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Bà Phạm Thị L trình bày: giữa bà và ông T có thời gian ly thân, từ khi ly thân đến nay vợ chồng không thể hàn gắn đoàn tụ, do đó nay bà yêu cầu được ly hôn với ông T. Về con chung: hiện nay cháu T đang sống chung với ông T, nguyện vọng của cháu được sống chung với cha, ngoài ra từ ngày ly thân đến nay phía ông T cũng chở cháu T lên thăm ông bà ngoại và tạo điều kiện cho bà được tới lui thăm nom con nên sau khi ly hôn bà đề nghị để ông T là người trực tiếp nuôi con; về mức cấp dưỡng nuôi con bà và ông T tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết, về tài sản chung các bên tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết, về nợ chung: không có.

Ông Nguyễn Anh T vắng mặt.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thu ký phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị L, cụ thể:

- Về quan hệ hôn nhân: bà L được ly hôn với ông T.

- Về con chung: sau khi ly hôn, ông T là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung; về mức cấp dưỡng nuôi con các bên tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

- Về tài sản chung: bà L khai tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: bà L khai không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào lời trình bày của đương sự và phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận đnh:

[1] Về quan hệ pháp luật: bà Phạm Thị L khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Nguyễn Anh T, đồng thời yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung, ngoài ra bà L không có yêu cầu nào khác. Căn cứ đơn khởi kiện cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo quy định tại Điều 51 và Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: bà L khởi kiện yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con với ông T, đây là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ông Nguyễn Anh T có nơi cư trú tại xã S, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre có thẩm quyền giải quyền giải quyết vụ án.

[3] Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông T là phù hợp.

[4] Về quan hệ hôn nhân: vào năm 2011, bà L và ông T tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Việc đăng ký kết hôn giữa bà L và ông T là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc, đã tuân thủ đúng theo quy định tại Điều 9 và Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Tại đơn khởi kiện và Biên bản lấy lời khai ngày 31/5/2022 (B 30, 31), bà L trình bày hiện nay vợ chồng chung sống không hạnh phúc, không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập ông T đến để hòa giải nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng giữa ông và bà L nhưng ông T không có mặt. Ngoài ra, Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và thông báo các tài liệu chứng cứ của bà L cho ông T biết nhưng ông T không có mặt cũng như không có ý kiến phản đối với yêu cầu ly hôn của bà L. Bên cạnh đó, giữa bà L và ông T có thời gian ly thân từ ngày 06/3/2022 đến nay nhưng giữa bà L và ông T không thể hàn gắn, đoàn tụ. Từ các tài liệu chứng cứ trên, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà L và ông T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là phù hợp.

[5] Về con chung: bà L khai bà và ông T có với nhau 01 con chung tên Nguyễn Phạm Kiều T, sinh ngày 01/12/2011, ngoài ra giữa bà và ông T không còn con chung nào khác. Tại phiên tòa, bà L trình bày cháu T đang sống chung với ông T và có nguyện vọng sống chung với ông T, đồng thời ông T có nhà cửa, nghề nghiệp ổn định nên bà yêu cầu để con chung cho ông T là người trực tiếp nuôi dưỡng. Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy để con chung phát triển ổn định, toàn diện cần giao cháu Thương cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về mức cấp dưỡng nuôi con: bà L khai tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung: bà L khai tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về nợ chung: bà L khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn…” Như vậy, bà L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị L về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" đối với bị đơn ông Nguyễn Anh T, cụ thể như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: bà Phạm Thị L được ly hôn với ông Nguyễn Anh T.

- Về con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Phạm Kiều T, sinh ngày 01/12/2011. Sau khi ly hôn, ông Nguyễn Anh T là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung.

Về mức cấp dưỡng nuôi con: bà Phạm Thị L khai tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: bà Phạm Thị L khai tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

- Về nợ chung: bà Phạm Thị L khai không có nên không xem xét.

2. Án phí: bà Phạm Thị L phải chịu số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số XYZ ngày 12 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bến Tre (đã nộp xong).

3. Bà Phạm Thị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Ông Nguyễn Anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

4. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 49/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:49/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về