Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 21/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 21/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/02/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 16 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 274/2021/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2021, về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 250/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2022/QĐST- HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2022 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 05/2022/TB-TA ngày 08/02/2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T, sinh năm 1988.

ĐKHKTT: Khu 6, L, thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương.

Chỗ ở hiện nay: Thôn M, phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Anh Phạm Quang T1, sinh năm 1986.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Khu 6, L, thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Cộng hòa Séc.

(Chị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Anh T1 có quan điểm đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn chị Phạm Thị T trình bày: Chị và anh Phạm Quang T1 được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương vào ngày 30/10/2012. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì anh T1 đi xuất khẩu lao động tại Cộng hòa Séc, thời gian đầu anh có liên lạc với chị để chia sẻ cuộc sống gia đình, nhưng kể từ năm 2016 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng sống xa cách nên tình cảm dần phai nhạt, dẫn đến nghi ngờ lẫn nhau, anh T1 không liên lạc với chị nữa, vợ chồng không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Quang T1.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Phạm Khánh L1, sinh ngày 28/7/2013, hiện con đang ở với chị. Ly hôn chị đề nghị được nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu anh T1 phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không nợ ai cũng như không ai nợ vợ chồng nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do chị T không cung cấp được địa chỉ của anh T1 nên Tòa án đã tiến hành xác minh tại gia đình anh T1. Ông Phạm Quang Th - bố đẻ của anh T1 trình bày: Ông không biết địa chỉ cụ thể của anh T1 ở nước ngoài nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên anh T1 vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại. Ông đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh T1 biết. Thông qua gia đình anh T1 có quan điểm xác định vợ chồng không còn tình cảm với nhau nên chị T có đơn xin ly hôn, anh cũng nhất trí. Anh xác định vợ chồng có một con chung như chị T trình bày là đúng. Anh nhất trí để chị T nuôi dưỡng con chung, về việc cấp dưỡng tiền nuôi con anh chị tự thống nhất thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung anh T1 xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh T1 đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Cháu Phạm Khánh L1 có nguyện vọng được ở với mẹ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh T1 đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Phạm Thị T ly hôn anh Phạm Quang T1. Về con chung: Giao con chung Phạm Khánh L1 cho chị T nuôi dưỡng, anh T1 không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Chị T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Phạm Thị T sinh sống tại Việt Nam, bị đơn anh Phạm Quang T1 có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại khu 6, L, thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương, hiện anh T1 đang lao động tại Cộng hòa Séc. Do vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị T không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh T1 tại Cộng hòa Séc. Theo hướng dẫn tại công văn số 253/TANDTC- PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình anh T1 cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Do vậy, áp dụng Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành giao các văn bản tố tụng cho ông Thơ - bố đẻ anh T1, đồng thời niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị T có quan điểm xin được xét xử vắng mặt, thông qua gia đình anh T1 cũng có quan điểm xin được vắng mặt. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị T và anh T1 theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị T và anh Phạm Quang T1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương vào ngày 30/10/2012, do vậy hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì anh T1 đi xuất khẩu lao động tại Cộng hòa Séc, từ đó đến nay anh T1 chưa về nước. Do vợ chồng xa cách dẫn đến phát sinh mâu thuẫn và nghi ngờ lẫn nhau, không ai quan tâm đến ai. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T1. Thông qua gia đình anh T1 cũng xác định vợ chồng không còn tình cảm và nhất trí ly hôn. Hội đồng xét xử thấy, mâu thuẫn giữa chị T và anh T1 đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, có căn chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Tươi.

[2.2] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có một con chung là Phạm Khánh L1, sinh ngày 28/7/2013, hiện con đang ở với chị Tươi. Chị T có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh T1 phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Hội đồng xét xử thấy, hiện tại anh T1 đang lao động tại Cộng hòa Séc, không có mặt tại Việt Nam nên không có đủ điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng con chung, hơn nữa thông qua gia đình anh cũng nhất trí để chị T được nuôi dưỡng con chung, cháu Linh có nguyện vọng được ở với mẹ. Do vậy, cần giao cháu Linh cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với nguyện vọng của các đương sự.

Chị T có quan điểm tự nguyện không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét thấy sự tự nguyện của chị T không trái quy định của pháp luật nên có căn cứ chấp nhận.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Do các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; 56; 81; 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị T ly hôn anh Phạm Quang T1.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Phạm Thị T được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Phạm Khánh L1, sinh ngày 28/7/2013 cho đến khi con tròn 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh T1 phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh Phạm Quang T1 được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được đối trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm chị T đã nộp, theo biên lai thu số AA/2020/0004619 ngày 03 tháng 12 năm 2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị T đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Phạm Quang T1 được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 21/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:16/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về