Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 148/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 148/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 112/2022/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2022, về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 200/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 127/2022/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1991. ĐKHKTT: Xóm 8, thôn Đ, xã Q, thị xã M, tỉnh Hải Dương.

Chỗ ở hiện nay: KDC Vũ X, phường H, thị xã M, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Anh Trần Đức M, sinh năm 1990.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Xóm 8, thôn Đ, xã Q, thị xã M, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Đài Loan.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị N, sinh năm 1970. ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm 8, thôn Đ, xã Q, thị xã M, tỉnh Hải Dương.

(Chị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh M và bà N có quan điểm đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Hoàng Thị H trình bày: Chị và anh Trần Đức M được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện M (nay là xã Q, thị xã M), tỉnh Hải Dương vào ngày 14/11/2011. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 7/2018 thì anh M đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Đến tháng 01/2021 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh M chơi bời, không chịu khó làm ăn. Anh M rất ít khi gửi tiền về cho chị nuôi con và trang trải cuộc sống, khi chị yêu cầu anh M gửi tiền về thì anh cắt đứt không liên lạc với chị, khi chị nói về việc ly hôn thì anh đe dọa, gây sức ép đuổi chị ra khỏi nhà và không cho chị đưa các con đi theo. Nay chị xác định tình cảm không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trần Đức M.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Trần Đức T, sinh ngày 12/8/2012; Trần Kiều D, sinh ngày 08/9/2016 và Trần Tuệ Nh, sinh ngày 09/10/2018, hiện các con đang ở với bà nội là Trần Thị N. Ly hôn chị đề nghị được nuôi dưỡng con chung Trần Tuệ Nh, nhất trí giao con chung Trần Đức H và Trần Kiều D cho anh M nuôi dưỡng cho đến khi các con thành niên, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian anh M không có mặt tại Việt Nam chị nhất trí giao con chung Trần Đức H và Trần Kiều D cho bà N chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị xác định vợ chồng không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do chị H không cung cấp được địa chỉ của anh M nên Tòa án đã tiến hành xác M tại gia đình bà N. Bà Trần Thị N - mẹ đẻ anh M trình bày: Bà không biết địa chỉ cụ thể của anh M ở nước ngoài nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên anh M vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại. Bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh M biết. Thông qua gia đình anh M có quan điểm nhất trí để chị H đi làm ăn kinh tế, khi nào về nước nếu vợ chồng còn tình cảm thì ở với nhau, nếu vợ chồng không còn tình cảm thì khi về nước anh sẽ giải quyết ly hôn sau. Anh xác định vợ chồng có 03 con chung như chị H trình bày là đúng. Anh đề nghị được nuôi dưỡng cả 03 con chung, không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng cho con và ủy quyền cho bà N thay anh chăm sóc các con vì từ nhỏ cho đến nay các con đều do mẹ anh nuôi dưỡng. Về tài sản chung anh M xác định không có nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh M, bà N đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Qua xác minh tại Uỷ ban nhân dân xã Q cho thấy, sau khi kết hôn anh M và chị H chung sống cùng nhau tại địa phương, tuy nhiên mâu thuẫn của vợ chồng như thế nào thì địa phương không nắm được. Sau khi anh M đi lao động ở nước ngoài, chị H sống chung với mẹ chồng được khoảng 3 năm thì về nhà bố mẹ đẻ ở. Hiện tại anh M chưa về nước, vợ chồng sống xa cách mỗi người một nơi, tình cảm không được vun đắp, chia sẻ. Nay chị H xin ly hôn, địa phương đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Cháu Trần Đức T có nguyện vọng được ở với bố và bà nội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh M đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Hoàng Thị H ly hôn anh Trần Đức M. Về con chung: Giao con chung Trần Tuệ Nh cho chị H nuôi dưỡng, giao con chung Trần Đức T và Trần Kiều D cho anh M nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Tạm giao con chung Trần Đức T và Trần Kiều D cho bà Trần Thị M chăm sóc cho đến khi anh M về nước. Chị H phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Hoàng Thị H sinh sống tại Việt Nam, bị đơn anh Trần Đức M có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại xóm 8, thôn Đ, xã T, thị xã M, tỉnh Hải Dương, hiện anh M đang lao động tại Đài Loan. Do vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh M tại Đài Loan. Theo hướng dẫn tại công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu bà Trần Thị N là mẹ đẻ của anh M cung cấp địa chỉ, nhưng bà N không cung cấp được. Do vậy, áp dụng công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành giao các văn bản tố tụng cho bà N, đồng thời niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị H và bà N có quan điểm đề nghị được xét xử vắng mặt, thông qua gia đình anh M cũng có quan điểm xin được vắng mặt. Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị H, anh M và bà N theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị H và anh Trần Đức M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện M (nay là xã Q, thị xã M), tỉnh Hải Dương vào ngày 14/11/2011, do vậy hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Theo chị H vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì anh M đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Tuy nhiên từ tháng 01/2021 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh M chơi bời, không chịu khó làm ăn, không gửi tiền về cho chị chăm lo cho các con và còn đe dọa, đuổi chị ra khỏi nhà nên tháng 3/2022 chị đã về nhà đẻ ở. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh M. Thông qua gia đình anh M có quan điểm hiện tại anh không đồng ý ly hôn, khi nào anh về nước nếu vợ chồng không còn tình cảm thì khi đó sẽ giải quyết ly hôn sau. Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù anh M không đồng ý ly hôn nhưng anh không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Theo bà N cho biết anh M đi lao động tại Đài Loan từ năm 2018 đến nay chưa về nước, hiện tại cũng chưa biết đến khi nào anh M về nước, trong khi đó chị H xác định vợ chồng không còn tình cảm và giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn anh M. Do vậy, có căn cứ xác định mâu thuẫn giữa chị H và anh M đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.

[2.2] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 03 chung là Trần Đức T, sinh ngày 12/8/2012; Trần Kiều D, sinh ngày 08/9/2016 và Trần Tuệ Nh, sinh ngày 09/10/2018, hiện các con đang ở với bà N. Chị H đề nghị được nuôi dưỡng con chung Trần Tuệ Nh, anh M đề nghị được nuôi dưỡng cả ba con chung cho đến khi các con thành niên, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Con chung Trần Đức T có nguyện vọng được ở với anh M. Hội đồng xét xử thấy, nguyện vọng xin nuôi con của chị H, anh M là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên hiện tại con chung Trần Tuệ Nh vẫn còn nhỏ nên giao cho chị H nuôi dưỡng cháu Tuệ Nh là phù hợp. Anh M tuy không có mặt tại Việt Nam nhưng anh đã ủy quyền cho bà N thay anh chăm sóc các con, chị H cũng nhất trí để anh M chăm sóc con chung Trần Đức T và Trần Kiều D. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung Trần Đức T và Trần Kiều D cho anh M chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định của pháp luật. Tạm giao con chung Trần Đức T và Trần Kiều D cho bà N nuôi dưỡng trong thời gian anh M không có mặt tại Việt Nam.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Do các đương sự đều xác định không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; 56; 81; 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị H ly hôn anh Trần Đức M.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Hoàng Thị H được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Trần Tuệ Nh, sinh ngày 09/10/2018 cho đến khi con tròn 18 tuổi. Giao cho anh Trần Đức M được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Trần Đức T, sinh ngày 12/8/2012; Trần Kiều D, sinh ngày 08/9/2016 cho đến khi các con tròn 18 tuổi. Chị H và anh M không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Tạm giao con chung Trần Đức T và Trần Kiều D cho bà Trần Thị N nuôi dưỡng trong thời gian anh M không có mặt tại Việt Nam.

Chị Hoàng Thị H và anh Trần Đức M được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được đối trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm chị H đã nộp, theo biên lai thu số AA/2021/0000071 ngày 25 tháng 4 năm 2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị H đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị H và bà Trần Thị N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Trần Đức M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 148/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:148/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về