TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN D - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 10/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 10 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân quận D, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 12/2022/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2022 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 183/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 198/2021/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Thùy L; nơi cư trú: Tổ 9, phường H, quận D, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn K; nơi cư trú: Tổ 9, phường H, quận D, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn K kiện, bản tự khai và trong quá trình chuẩn bị xét xử, nguyên đơn là chị Ngô Thị Thùy L trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn K kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào tháng 01 năm 2021, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, quận D, thành phố Hải Phòng. Ngay sau khi về chung sống đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do chị và anh K bất đồng quan điểm sống, về cách sinh hoạt và không có con chung. Chị và anh K thường xuyên xảy ra tranh cãi dẫn đến mâu thuẫn ngày càng căng thẳng. Đến cuối năm 2021, chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Nay, chị thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh K.
Về con chung: Chị và anh K không có con chung Về tài sản chung: Chị và anh K tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án cũng như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Văn K nhưng anh K không cung cấp lời khai, không đến Tòa án để giải quyết việc ly hôn với chị L.
Tòa án đã tiến hành xác minh về mâu thuẫn vợ chồng tại địa phương nơi chị L và anh K sinh sống thể hiện vợ chồng có mâu thuẫn và chị L đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống từ cuối năm 2021 đến nay.
Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh K đều vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.
Trước khi mở phiên tòa, chị L có đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên quan điểm như đơn K kiện và trong quá trình giải quyết vụ án; tại phiên toà, anh K vắng mặt lần thứ hai không có lý do chính đáng.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận D, thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án và ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu K kiện của nguyên đơn: Cho chị L được ly hôn anh K. Vợ chồng không có con chung, về tài sản chung chị L không yêu cầu nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về thủ tục tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Ngô Thị Thùy L và anh Nguyễn Văn K kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường H, quận D, thành phố Hải Phòng năm 2021; theo quy định tại Điều 9, Điều 11, Điều 103 của Luật Hôn nhân và Gia đình, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị Ngô Thị Thùy L có đơn đề nghị Tòa án nhân dân quận D giải quyết việc ly hôn, anh Nguyễn Văn K hiện đang cư trú tại phường H, quận D, thành phố Hải Phòng nên theo khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận D, thành phố Hải Phòng.
[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Anh K đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng vắng mặt, chị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ các điều 227, điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Ngô Thị Thùy L và anh Nguyễn Văn K.
- Về quan hệ hôn nhân:
[3] Chị Ngô Thị Thùy L và anh Nguyễn Văn K xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn, cuộc sống chung của vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, mâu thuẫn không thể giải quyết nên chị L đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Quá trình xác minh thu thập chứng cứ qua lời khai của gia đình, chính quyền địa phương xác định: Chị L và anh K xảy ra mâu thuẫn, hai bên đã hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Hiện tại, chị L và anh K đã sống ly thân, không còn quan tâm tới nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh K vắng mặt không lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình: "1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. 2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác". Căn cứ vào quy định của pháp luật và thực tế, đủ cơ sở xác định hai bên đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu của chị L về việc xin ly hôn anh K là phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên cần chấp nhận.
- Về con chung:
[4] Chị L và anh K không có con chung - Về tài sản chung:
[5] Chị L không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
- Về án phí ly hôn sơ thẩm:
[6] Chị L là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
- Về quyền kháng cáo:
[7] Chị L và anh K được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các điều 28, điều 35, điều 39, điều 147, điều 207, điều 227, điều 228, điều 238 và điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Thị Thùy L được ly hôn anh Nguyễn Văn K quyết.
2. Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải
3. Về án phí: Chị Ngô Thị Thùy L phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí Tòa án số 0002809 ngày 25-3-2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận D, thành phố Hải Phòng. Chị Ngô Thị Thùy L đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Ngô Thị Thùy L và anh Nguyễn Văn K vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 10/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 10/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Dương Kinh - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về