Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 04/2022/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 04/2022/HNGĐ-PT NGÀY 02/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 02-8-2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 06/2022/TLPT-HNGĐ ngày 27-6-2022 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn, do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 09/2022/HNGĐ-ST ngày 16-5-2022 của Toà án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 06/2022/QĐ-PT ngày 18-7-2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Đường Văn Th, sinh năm 1990; địa chỉ: Số 2, đường Nguyễn Thái H, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

- Bị đơn: Chị Hoàng Ngọc L, sinh năm 1991, địa chỉ: Thôn Đ, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

- Người kháng cáo: Chị Hoàng Ngọc L, là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Anh Đường Văn Th và chị Hoàng Ngọc L tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, đã đăng ký đăng kết hôn ngày 16-01-2015 tại Ủy ban nhân dân xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi kết hôn, anh Đường Văn Th và chị Hoàng Ngọc L chung sống cùng mẹ đẻ của anh Đường Văn Th tại thị trấn N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn.

Theo anh Đường Văn Th, khoảng năm 2016, vợ chồng anh Đường Văn Th, chị Hoàng Ngọc L bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do hai người khác nhau về tính cách, bất đồng quan điểm trong giải quyết công việc và các mối quan hệ; chị Hoàng Ngọc L có lối sống ích kỷ, hay ghen tuông vô cớ, không khéo léo trong quan hệ mẹ chồng con dâu. Chị Hoàng Ngọc L cho rằng anh Đường Văn Th có quan hệ với người phụ nữ khác, dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi vã, có lời nói xúc phạm nhau, nhưng mâu thuẫn chỉ phát sinh từ khi anh Đường Văn Th nộp đơn xin ly hôn.

Anh Đường Văn Th xác định không còn tình cảm với chị Hoàng Ngọc L nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với chị Hoàng Ngọc L; trong quá trình Tòa án nhân dân thành phố L thụ lý, giải quyết vụ án, chị Hoàng Ngọc L thừa nhận tình cảm vợ chồng đã rạn nứt, nhưng nhiều lần thay đổi ý kiến về việc đồng ý hoặc không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh Đường Văn Th và chị Hoàng Ngọc L có hai con chung là cháu A, sinh ngày 22-11-2015 và cháu H, sinh ngày 04-8-2020. Khi ly hôn, anh Đường Văn Th yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu A, chị Hoàng Ngọc L nuôi dưỡng cháu H, hai bên không phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Đã tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 09/2022/HNGĐ-ST ngày 16- 5-2022 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định:

Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Đường Văn Th được ly hôn với chị Hoàng Ngọc L.

Về con chung: Anh Đường Văn Th được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu A, sinh ngày 22-11-2015 đến tuổi trưởng thành; chị Hoàng Ngọc L được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu H, sinh ngày 04-8-2020 đến tuổi trưởng thành. Anh Đường Văn Th và chị Hoàng Ngọc L được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 25-5-2022, chị Hoàng Ngọc L nộp đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm với nội dung không đồng ý với phần quyết định về quan hệ hôn nhân và đề nghị cấp phúc thẩm hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm chị Hoàng Ngọc L thay đổi nội dung kháng cáo, cụ thể, về quan hệ hôn nhân, chị Hoàng Ngọc L đồng ý ly hôn theo yêu cầu của anh Đường Văn Th; về trách nhiệm nuôi dưỡng con chung, chị Hoàng Ngọc L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là A và H; yêu cầu anh Đường Văn Th cấp dưỡng cho mỗi con 3.000.000 đồng một tháng.

Anh Đường Văn Th đồng ý với yêu cầu của chị Hoàng Ngọc L về trách nhiệm nuôi dưỡng con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về án phí sơ thẩm và phúc thẩm giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật tố tụng và giải quyết vụ án như sau:

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa đã được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về kháng cáo của người kháng cáo: Chị Hoàng Ngọc L kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn luật định, do đó, kháng cáo hợp lệ. Việc thay đổi nội dung kháng của chị Hoàng Ngọc L tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với quy định của pháp luật.

Quan điểm giải quyết đối với Bản án sơ thẩm bị kháng cáo: Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Hoàng Ngọc L và anh Đường Văn Th đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Nội dung thỏa thuận của các đương sự về quan hệ hôn nhân và trách nhiệm nuôi dưỡng con chung là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 300 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa Bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Anh Đường Văn Th và chị Hoàng Ngọc L tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn ngày 16-01-2015 tại Ủy ban nhân dân xã H, thành phố L. Do đó, hôn nhân giữa anh Đường Văn Th và chị Hoàng Ngọc L là hợp pháp. Trong thời kỳ hôn nhân, anh chị có hai con chung là A, sinh ngày 22-11-2015 và H, sinh ngày 04-8-2020, hiện nay chị Hoàng Ngọc L đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Quá trình giải quyết vụ án, anh Đường Văn Th và chị Hoàng Ngọc L xác định vợ chồng đã tự thỏa thuận chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

vợ chồng không có nợ chung.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Hoàng Ngọc L và anh Đường Văn Th thỏa thuận được với nhau về toàn bộ nội dung vụ án, cụ thể:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Ngọc L và anh Đường Văn Th thuận tình ly hôn;

[4] Về trách nhiệm nuôi dưỡng con chung: Chị Hoàng Ngọc L và anh Đường Văn Th thỏa thuận chị Hoàng Ngọc L được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung là A và H đến khi con đủ 18 tuổi; anh Đường Văn Th có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung, mức cấp dưỡng cho mỗi con mỗi tháng là 3.000.000 đồng, kể từ ngày 02-8-2022 cho đến khi con đủ 18 tuổi.

[5] Xét thấy, việc thỏa thuận giữa chị Hoàng Ngọc L và anh Đường Văn Th về quan hệ hôn nhân và trách nhiệm nuôi dưỡng con sau khi ly hôn là tự nguyện; nội dung thỏa thuận không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, bảo đảm quyền lợi chính đáng về mọi mặt của con. Căn cứ khoản 2 Điều 5 và Điều 300 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử sửa Bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

[6] Án phí dân sự sơ thẩm: Anh Đường Văn Th và chị Hoàng Ngọc L mỗi người phải nộp 150.000 đồng án phí về việc thuận tình ly hôn; anh Đường Văn Th phải nộp 300.000 đồng án phí về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5, điểm b khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

[7] Án phí phúc thẩm: Chị Hoàng Ngọc L kháng cáo Bản án sơ thẩm và các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tại phiên tòa phúc thẩm, do đó, chị Hoàng Ngọc L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 5 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 5, Điều 300 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Sửa Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 09/2022/HNGĐ-ST ngày 16- 5-2022 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; công nhận sự thỏa thuận của chị Hoàng Ngọc L và anh Đường Văn Th, cụ thể:

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào Điều 55, Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ vào Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào điểm b khoản 6 Điều 27, khoản 5 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Đường Văn Th và chị Hoàng Ngọc L.

2. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dƣỡng, giáo dục con sau khi ly hôn Anh Đường Văn Th và chị Hoàng Ngọc L có hai con chung là A, sinh ngày 22-11-2015 và H, sinh ngày 04-8-2020; chị Hoàng Ngọc L được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung đến khi các con đủ 18 tuổi; anh Đường Văn Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.

Anh Đường Văn Th có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con là A, sinh ngày 22- 11-2015 và H, sinh ngày 04-8-2020 kể từ ngày 02-8-2022 cho đến khi con đủ 18 tuổi; mức cấp dưỡng cho mỗi con là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) một tháng.

Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành, trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí

3.1. Án phí sơ thẩm: Anh Đường Văn Th phải nộp 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng) án phí sơ thẩm về thuận tình ly hôn và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0000688 ngày 22-11-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, anh Đường Văn Th còn phải nộp số tiền 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng). Chị Hoàng Ngọc L phải nộp 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng) án phí sơ thẩm về thuận tình ly hôn.

3.2. Án phí phúc thẩm: Chị Hoàng Ngọc L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0000928 ngày 17-6-2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Chị Hoàng Ngọc L đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 04/2022/HNGĐ-PT

Số hiệu:04/2022/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về