Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị N và anh T số 83/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 83/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA CHỊ N VÀ ANH T

Ngày 05 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 172/2022/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Võ Thị Kim N, sinh năm 1992. Địa chỉ: 53, ấp A, xã AH, huyện C, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Anh Trương Tấn T, sinh năm 1996. Địa chỉ: 336, ấp L, xã Q, huyện G, tỉnh Bến Tre.

Tại phiên tòa sơ thẩm, chị N và anh T vắng mặt (chị N và anh T đều có đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 18/4/2022, đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 20/5/2022, nguyên đơn là chị Võ Thị Kim N trình bày:

Chị và anh T cưới nhau do tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện G, tỉnh Bến Tre vào năm 2021. Sau khi kết hôn, chị sống bên gia đình anh T. Thời gian chung sống, chị và anh T có 01 con chung là Trương Võ Gia Khang, sinh ngày 22/01/2022. Thời gian sống chung, vợ chồng chị có nhiều mâu thuẫn, không hòa hợp trong mọi lĩnh vực, mẹ chồng quá khắc khe nên sau khi chị sinh con được khoảng 02 tháng thì chị đưa con về nhà cha mẹ ruột sống cho đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con. Chị và anh T không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do không còn tình cảm với anh T nên chị yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải. Do con còn nhỏ, không thể đến Tòa án tham gia giải quyết nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt chị.

Tại bản khai, đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt cùng đề ngày 13/6/2022, bị đơn là anh Trương Tấn T trình bày:

Anh và chị Võ Thị Kim N chung sống với nhau do tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân nhân xã Lương Quới, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre vào năm 2021. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống bên gia đình anh. Trong quá trình chung sống, anh và chị N xảy ra mâu thuẫn, hay cự cãi, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên chị N đưa con về nhà cha mẹ ruột của chị ở cho đến nay khoảng 06 tháng. Anh nhận thấy vợ chồng không thể hòa hợp nên anh đồng ý ly hôn.

Anh và chị N có 01 con chung là Trương Võ Gia Khang, sinh ngày 22/01/2022. Anh đồng ý để chị N tiếp tục nuôi con, anh không cấp dưỡng nhưng sẽ phụ lo cho con theo khả năng của anh.

Anh và chị N không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do anh đi làm công nhân, xin nghỉ khó khăn nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt anh.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu ý kiến: Vế tố tụng:

Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Kim N. Cụ thể:

- Về hôn nhân: Chị Võ Thị Kim N được ly hôn với anh Trương Tấn T.

- Về con chung: Chị Võ Thị Kim N được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Trương Võ Gia Khang, sinh ngày 22/01/2022, đến khi thành niên.

Ghi nhận chị N không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Trong trường hợp có yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Cả hai trình bày không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Võ Thị Kim N khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con với anh Trương Tấn T. Anh Trương Tấn T là bị đơn trong vụ án, cư trú tại xã Lương Quới, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Chị N, anh T đều có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị N, anh T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Kim N và anh Trương Tấn T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lương Quới, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre vào năm 2021 nên quan hệ hôn nhân của chị N và anh T được xem là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Tuy nhiên, chị N và anh T đều cho rằng trong thời gian chung sống, anh, chị có phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, chị N đã đưa con về nhà cha mẹ ruột của chị sống, không sống chung với anh T đến nay khoảng 06 tháng. Theo chị N thì tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin ly hôn với anh T. Anh T cũng thừa nhận cuộc sống vợ chồng có nhiều bất đồng quan điểm, mâu thuẫn, cự cãi, anh đồng ý ly hôn với chị N.

Qua xác minh, mẹ ruột của anh T là bà Nguyễn Thị Em (sống cùng địa chỉ với anh T) cung cấp thông tin: Sau khi anh T và chị N cưới nhau thì về sống chung với bà. Bà không biết nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị N và anh T. Có lần chị N nói về nhà nuôi cha của chị bệnh rồi chị đưa con về nhà cha mẹ ruột sống cho đến nay, không trở về nhà của bà sống với bà và anh T nữa.

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, chị N nộp đơn đề nghị xét xử vắng mặt, trong đơn có phần nội dung cho rằng do không còn tình cảm với anh T nên yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải.

Như vậy, tình trạng hôn nhân của chị N và anh T đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị N để giải quyết cho chị N được ly hôn với anh T.

[3] Về con chung: Chị N và anh T có 01 con chung tên Trương Võ Gia Khang, sinh ngày 22/01/2022. Hiện tại, chị N đang nuôi dưỡng con chung.

Hội đồng xét xử xét thấy hiện tại chị N đang nuôi con chung dưới 36 tháng tuổi. Theo quy định pháp luật, chị N được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Đồng thời, để đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống của con chung, giao cho chị N được tiếp tục nuôi dưỡng con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi. Vấn đề này anh T cũng thống nhất đồng ý, thể hiện tại bản khai và đơn yêu cầu xét xử vắng mặt của anh.

Theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì sau khi ly hôn “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con” nhưng chị N không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con nên ghi nhận.

[4] Về tài sản chung: Chị N và anh T đều trình bày không có tài sản chung. [5] Về nợ chung: Chị N và anh T đều trình bày không có nợ chung.

[6] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên có căn cứ chấp nhận.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị N phải chịu 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0007249 ngày 04 tháng 5 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm. Chị N đã nộp đủ án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 228, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Kim N.

- Về hôn nhân: Chị Võ Thị Kim N được ly hôn với anh Trương Tấn T.

- Về con chung: Chị Võ Thị Kim N được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Trương Võ Gia Khang, sinh ngày 22/01/2022, đến khi thành niên.

Ghi nhận chị Võ Thị Kim N không yêu cầu anh Trương Tấn T cấp dưỡng cho con.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Anh Trương Tấn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Trong trường hợp có yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Võ Thị Kim N và anh Trương Tấn T thống nhất trình bày không có tài sản chung, không có nợ chung.

Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị Võ Thị Kim N phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0007249 ngày 04 tháng 5 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm. Chị N đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị N và anh T số 83/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:83/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về